Trang chủ
Giới thiệu
Tổ chức
Ba công khai
Hoạt động
Tuyển sinh
Đào tạo
Biểu diễn
Nghiên cứu
Hợp tác quốc tế
Liên hệ

Kỷ niệm 65 năm thành lập Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam
Giảng viên
Sinh viên
Quản lý Đào tạo
Thư điện tử
e-VNAM
Học bạ điện tử
Tin ảnh

Lượt truy cập: 12275008
Tin tức hoạt động Thứ hai, 29/04/2024

Tác giả: Phạm Thị Trà My 
Đề tài: "Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020"
Chuyên ngành: Âm nhạc học
Mã số: 62.21.02.01.
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Phương Hoa  
Ngày đăng: 12/10/2023 

Luận án toàn văn 

Tóm tắt Luận án

 

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngay từ khi thành lập trường Âm Nhạc Việt Nam năm 1956 (nay là HVÂNQGVN), đàn tranh là một trong những nhạc cụ truyền thống đã được đưa vào giảng dạy chính quy. Bên cạnh việc giảng dạy các bài bản cổ truyền để gìn giữ bản sắc và những giá trị truyền thống, cốt lõi của âm nhạc dân tộc, các nhạc sĩ, nghệ sĩ, đã sáng tác những tác phẩm mới cho đàn tranh độc tấu và hòa tấu, khai thác, tiếp thu những ngón đàn của cha ông để lại cũng như sáng tạo những kỹ thuật mới cho đàn tranh diễn tấu. Các tác phẩm này một mặt đã chuyển tải được ngôn ngữ âm nhạc dân gian đặc trưng của vùng miền, mặt khác đã tạo nên sự biến đổi trong kỹ thuật diễn tấu, đánh dấu một bước tiến mới của đàn tranh. Từ đó, ngoài việc chỉ diễn tấu dưới hình thức hòa tấu âm nhạc cổ truyền, đàn tranh chính thức xuất hiện trong vai trò độc tấu các tác phẩm mới trên các sân khấu biểu diễn chuyên nghiệp. 

Trong sự tiếp biến giao lưu văn hóa nửa cuối thế kỷ XX, HVÂNQGVN đã cử một số giảng viên đàn tranh đi học tập, biểu diễn giao lưu tại Nhật Bản, Trung Quốc… Họ đã đem những kiến thức học tập, giao lưu của mình làm phong phú thêm cho chương trình đào tạo bộ môn đàn tranh, rất nhiều tác phẩm âm nhạc nước ngoài cũng được các giảng viên, nghệ sĩ yêu thích chuyển soạn cho đàn tranh độc tấu và trình diễn thành công. Chính những tác phẩm nước ngoài chuyển soạn này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, do những biến động về chính trị, xã hội, đặc biệt là mối giao lưu văn hóa với âm nhạc phương Tây đã đem đến một luồng sinh khí mới trong đời sống âm nhạc của người dân Việt Nam nói chung cũng như cây đàn tranh nói riêng. Nhiều tác phẩm độc tấu, hòa tấu viết cho cây đàn tranh mang đậm màu sắc âm nhạc của thời đại đã xuất hiện. Những tác phẩm viết cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 đã nâng nghệ thuật diễn tấu đàn tranh lên một tầm cao mới. Các nghệ sĩ đã có cơ hội để khai thác nhiều hơn kỹ thuật diễn tấu của cây đàn với các âm nhấn bán cung non già, kỹ thuật đàn hòa ca, kỹ thuật diễn tấu 4 tay cùng lúc trên một cây đàn tranh… Các tác phẩm viết cho đàn tranh trong giai đoạn này có tư duy âm nhạc và bút pháp sáng theo trào lưu âm nhạc mới, cho thấy đàn tranh hoàn toàn có thể diễn tấu được những nốt thăng giáng bất thường, những hợp âm nghịch, mang đến cho người nghe một góc nhìn mới lạ về cây đàn tranh. Để diễn tấu được những tác phẩm âm nhạc này đòi hỏi người nghệ sĩ biểu diễn ngoài việc nắm vững phong cách từng loại hình âm nhạc truyền thống, cần phải nắm vững tính năng của cây đàn, có kỹ thuật diễn tấu tốt, có tai nghe chuẩn, có khả năng hòa tấu với các nhạc cụ khác.

Là một nghệ sĩ biểu diễn, đã trực tiếp biểu diễn các tác phẩm mới được sáng tác cho đàn tranh ở nhiều giai đoạn khác nhau, tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật diễn tấu đàn tranh để từ đó tìm ra phương pháp diễn tấu phù hợp với nội dung tinh thần của các tác phẩm trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020. Cây đàn tranh đang chiếm một vị trí quan trọng và hiện vẫn đang phát huy được vai trò của nó trong đời sống âm nhạc. Trong mỗi giai đoạn, nghệ thuật - kỹ thuật diễn tấu đều có những điểm khác nhau nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu để tổng hợp, hệ thống cũng như đánh giá về nghệ thuật diễn tấu của cây đàn. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020”.

Trong luận án, nghệ thuật diễn tấu đàn tranh sẽ được chúng tôi phân tích thông qua các tác phẩm âm nhạc tiêu biểu được sáng tác và chuyển soạn cho đàn tranh từ năm 1956 đến năm 2020 và một số gương mặt nghệ sĩ đàn tranh tiêu biểu đã góp phần biểu diễn thành công những tác phẩm đó, với mong muốn giúp cho những người yêu mến, quan tâm đến cây đàn tranh có được một cái nhìn rõ nét về nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam từ khi nhạc cụ này được chính thức đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp. 

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:

- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu nghệ thuật diễn tấu các tác phẩm âm nhạc tiêu biểu được sáng tác và chuyển soạn cho đàn tranh nhằm tổng kết và đưa ra tiến trình phát triển nghệ thuật diễn tấu đàn tranh giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020.

  Luận án nghiên cứu hướng đến tác phẩm mới được sáng tác trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 để tìm ra những đặc điểm diễn tấu mới, bổ sung vào chương trình giảng dạy đàn tranh bậc sau đại học.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích tác phẩm mới tiêu biểu viết cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020 và nhóm tác phẩm tiêu biểu chuyển soạn cho đàn tranh từ âm nhạc Nhật Bản và Trung Quốc.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án sẽ đi sâu vào tìm hiểu và phân tích kỹ thuật diễn tấu các tác phẩm âm nhạc tiêu biểu viết và chuyển soạn cho đàn tranh diễn tấu trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ phân tích những tác phẩm mới tiêu biểu viết cho đàn tranh đã và đang được sử dụng trong đào tạo, biểu diễn giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020 và các tác phẩm Nhật Bản, Trung Quốc chuyển soạn cho đàn tranh trong chương trình giảng dạy tại HVÂNQGVN. 

4. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp phân tích tổng hợp

Phương pháp so sánh, đối chiếu

Phương pháp thực tiễn

5. Những đóng góp mới của luận án:

- Về mặt lý luận: Luận án là một công trình khoa học nghiên cứu sự phát triển của nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam.

Luận án đã tổng hợp được vai trò diễn tấu đàn tranh trong các hình thức hòa tấu âm nhạc cổ truyền, hòa tấu dàn nhạc với các tác phẩm mới được các nhạc sĩ sáng tác trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020.

Luận án đã tổng hợp được các tác phẩm độc tấu và hòa tấu tiêu biểu trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020 có vai trò diễn tấu của đàn tranh, được lập dưới hình thức bảng biểu theo tên tác phẩm, tên tác giả và năm sáng tác.

Luận án đã tổng kết được sự phát triển kỹ thuật diễn tấu đàn tranh từ năm 1956 đến năm 2020 qua minh chứng cụ thể bằng tác phẩm âm nhạc.

        Luận án đã hệ thống được tên các nghệ sĩ biểu diễn lần đầu và các nghệ sĩ biểu diễn thành công các tác phẩm được sáng tác cho đàn tranh diễn tấu giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020.

Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến cây đàn tranh trên các phương diện đào tạo, biểu diễn, sáng tác và nghiên cứu.

-  Về mặt thực tiễn: Chúng tôi đi sâu vào phân tích 25 tác phẩm âm nhạc tiêu biểu trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020. Từ đó chúng tôi đưa ra cách diễn tấu hiệu quả cho người biểu diễn và đồng thời mở ra hướng phát triển mới trong nghệ thuật diễn tấu của cây đàn. 

Luận án đã đề cập đến một số định hướng trong đào tạo, biểu diễn, sáng tác và nghiên cứu nhằm phát triển nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong hiện tại và tương lai để vị thế cây đàn tranh ngày càng phát triển.

Việc nghiên cứu thành công luận án đã bổ sung những tác phẩm âm nhạc được sáng tác cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 vào chương trình giảng dạy đàn tranh ở bậc cao học nhằm nâng cao nghệ thuật diễn tấu đàn tranh và mở ra hệ đào tạo thạc sĩ biểu diễn chuyên ngành nhạc cụ.

6. Bố cục của Luận án:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được chia làm 3 chương.

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và sự phát triển của đàn tranh giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020

Chương 2: Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2000

Chương 3: Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020

 

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN  CỦA ĐÀN TRANH GIAI ĐOẠN

TỪ NĂM 1956 ĐẾN NĂM 2020

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan đến luận án

Âm nhạc truyền thống

Âm nhạc thế kỷ XX

Ngón đàn

Kỹ thuật diễn tấu

Nghệ thuật diễn tấu

1.1.2. Sơ lược về vị trí và vai trò diễn tấu của đàn tranh Việt Nam

1.1.2.1. Vị trí đàn tranh trong các hình thức hòa tấu nhạc truyền thống

Căn cứ vào nguồn tài liệu sách đã được xuất bản của tác giả Minh Hiến (2012), Giới thiệu 152 nhạc khí dân tộc và 24 dàn nhạc dân tộc Việt Nam. Tác giả đã đề cập đến biên chế dàn nhạc trong hình thức hòa tấu âm nhạc truyền thống. 

Dàn nhạc Chèo cổ gồm: đàn nhị, sáo, trống chầu, trống đế, trống cơm, thanh la, mõ, sênh tiền... Sau này các nghệ nhân mới chuyển soạn những bài bản từ đàn nhị, đàn nguyệt sang cho đàn tranh diễn tấu thì biên chế của dàn nhạc Chèo mới xuất hiện thêm đàn tranh. 

Trong dàn nhạc thính phòng Huế, dàn ngũ tuyệt được coi là chuẩn mực của dàn nhạc truyền thống đệm cho ca Huế gồm: tranh, nguyệt, tỳ bà, tam, nhị. Ngoài ra còn có các hình thức diễn tấu với quy mô được thu nhỏ hơn như tam tấu, song tấu nhưng cũng đều có sự góp mặt của cây đàn tranh. 

Trong tư liệu nghiên cứu về Nghệ thuật đờn ca tài tử trong không gian văn hóa Nam bộ của tác giả Trần Văn Khê (2010) đã đề cập đến những nhạc khí dùng trong truyền thống đờn ca Tài tử mà các nhạc công khá tâm đắc. Theo tác giả Trần Văn Khê, trong truyền thống đờn ca Tài tử thì rất ít khi nhạc công độc tấu mà thường song tấu đàn tranh với đàn kìm hay tam tấu: đàn tranh - đàn kìm - đàn cò. Đờn ca Tài tử có thể tồn tại hoàn toàn độc lập với tư cách hòa tấu các nhạc cụ. 

1.1.2.2. Vai trò diễn tấu của đàn tranh

a, Trong dàn nhạc Chèo:      

Từ khi xuất hiện trong dàn nhạc Chèo truyền thống và sau này trong các vở Chèo cải biên, đàn tranh luôn giữ vai trò quan trọng không thể thiếu với những đóng góp không nhỏ trong việc phát triển dàn nhạc sân khấu Chèo. Với âm sắc đặc biệt, quãng âm rộng, khả năng diễn tấu phong phú, đàn tranh đã phát huy sở trường của mình trong việc dẫn dắt và hỗ trợ cho giai điệu ở hầu hết các bài bản và các tính chất âm nhạc khác nhau trong hệ thống các làn điệu Chèo như: Vỉa, Ngâm vịnh, Sử, Hề, Đường trường… Trong đó, kỹ thuật diễn tấu tay phải và tay trái của đàn tranh được khai thác triệt để trong việc diễn tả những ngón đàn đặc trưng của bài bản phong cách Chèo. 

b, Trong dàn nhạc thính phòng Huế:

Trong ca Huế, đàn tranh chiếm lợi thế về diễn tấu với quãng âm rộng, âm sắc kim, không bị trùng mầu âm với bất kỳ nhạc cụ nào khác trong dàn nhạc. Trong diễn tấu đàn tranh có nhiều ngón đàn mang mầu sắc riêng, đặc biệt là ngón Á. Ngón đàn này đã tạo nên sự kết nối giữa các cây đàn, nâng đỡ, đón giọng cho người hát, được sử dụng đặc biệt rộng rãi trong ca Huế. 

c, Dàn nhạc đờn ca Tài tử - Cải lương

Vai trò diễn tấu đàn tranh trong loại hình âm nhạc truyền thống đờn ca Tài tử - Cải lương cũng rất đa dạng, có thể hòa tấu riêng với các nhạc cụ cũng như đi cùng bè với các nhạc cụ dây gảy, chơi phần bè tòng nâng đỡ cho giọng ca. Trong hòa tấu nhạc phong cách Tài tử - Cải lương, mỗi nhạc cụ đều giữ một vai trò, vị trí nhất định. Đàn tranh thường chơi mở đầu, tạo hơi nhạc trong những câu rao trước khi vào bài. Đặc biệt ngón Á của đàn tranh luôn được sử dụng khi đón vào đầu câu cùng lời hát hoặc trong phần mở đầu mỗi câu nhạc sau tiếng gõ song loan như một quy tắc bất di bất dịch. 

d, Dàn nhạc hòa tấu các tác phẩm mới

Sự ra đời của trường ÂNVN năm 1956 đã phát huy được thể tài mới của nền âm nhạc cách mạng, những loại hình âm nhạc mang phong cách đại hòa tấu của nền âm nhạc bác học đã nở rộ và phát triển từ những năm đầu của thập niên 60. Thời kỳ này cũng đã xuất hiện các tác phẩm hòa tấu dành cho nhạc cụ dân tộc, có bài bản phân công rõ ràng vai trò diễn tấu của các nhạc cụ theo tính năng và tính chất âm thanh của các nhạc cụ. Đàn tranh luôn giữ vị trí quan trọng trong bè gảy. Những kỹ thuật diễn tấu của đàn tranh được các tác giả khai thác khi sáng tác cho dàn nhạc, đó là: kỹ thuật gảy nốt đệm quãng 8, gảy song long, gảy chồng âm, quãng 8, 3, 4, 5… gảy hợp âm 2, 3 nốt… vê đơn nốt, vê chồng âm để tăng cường độ dày của hòa âm cho tác phẩm.

e, Đệm cho ngâm thơ

Với khả năng diễn tấu phong phú, đàn tranh là một trong những nhạc cụ dân tộc chiếm vị trí quan trọng trong việc đệm cho ngâm thơ. Một số làn điệu được sử dụng trong ngâm thơ như: ngâm thơ Huế, lảy Kiều, ngâm vỉa Sa mạc, Bồng mạc… Với màu sắc âm thanh trong trẻo, âm vực rộng, nhiều ngón đàn phong phú, linh hoạt, đàn tranh có thể phát huy khả năng của mình, độc lập đệm cho ngâm thơ.

g, Độc tấuĐàn tranh có khả năng diễn tấu được nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, không nhất thiết phải có nhạc cụ khác hỗ trợ. Đặc biệt, với màu âm phong phú, tính năng nhạc cụ có thể vừa diễn tấu giai điệu nguyên bản, vừa có khả năng tự đệm, vì vậy đã có khá nhiều nghệ sĩ lựa chọn những tác phẩm trình diễn một mình để có thể khoe được âm sắc của cây đàn. Để đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của xã hội, cũng như thẩm mỹ âm nhạc của công chúng ngày càng được nâng cao, vào những năm nửa cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đã có nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ viết các tác phẩm mới cho đàn tranh độc tấu theo những ngôn ngữ âm nhạc hoàn toàn mới. 

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Để triển khai nghiên cứu một cách khoa học và có hiệu quả cho đề tài luận án “Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020” chúng tôi tiến hành công tác sưu tầm, hệ thống và tìm hiểu những tài liệu đã được nghiên cứu đi trước về đàn tranh, thể hiện qua những nhóm chính sau: 

1.2.1 Hệ thống các tài liệu nghiên cứu và những vấn đề đã được đề cập

1.2.1.1 Những tài liệu, sách nghiên cứu liên quan đến đàn tranh

        a, Những nghiên cứu liên quan đến nguồn gốc xuất xứ của đàn tranh

         b, Những nghiên cứu liên quan đến diễn tấu của đàn tranh

        c,Những nghiên cứu liên quan đến việc phát triển, mở rộng âm vực của đàn tranh

1.2.1.2 Các nhóm luận văn, luận án nghiên cứu liên quan đến âm nhạc truyền thống

1.2.1.3 Nhóm luận văn, tài liệu nghiên cứu liên quan đến giảng dạy đàn tranh

a, Nhóm luận văn nghiên cứu liên quan đến giảng dạy

b, Những tài liệu, sách liên quan đến giảng dạy

1.2.2 Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án

1.2.2.1 Đánh giá tình hình nghiên cứu

Qua các tài liệu nghiên cứu về đàn tranh, mặc dù cách đặt vấn đề có khác nhau, song hầu hết đều nhắc tới nguồn gốc, xuất xứ của đàn tranh, kỹ thuật diễn tấu ngón đàn trong bài bản âm nhạc cổ truyền hoặc tác phẩm mới với những phong cách biểu hiện không giống nhau. Luận án của chúng tôi sẽ không đi sâu nghiên cứu và nhắc lại các vấn đề đã nêu.

Với những tài liệu nghiên cứu khá chi tiết về sự phát triển của đàn tranh, trong đó có việc đàn tranh được các nghệ nhân, nghệ sĩ sáng tạo, cải tiến, mở rộng âm vực diễn tấu của cây đàn để thuận lợi hơn cũng như phát huy được các lợi thế trong việc diễn tấu các bài bản cổ truyền hay các tác phẩm sáng tác mới. Những nghiên cứu này đều đưa ra những ưu, khuyết của những cây đàn cải tiến nhưng không đề cập đến cách trình diễn như thế nào để thấy rõ được sự phát triển trong nghệ thuật diễn tấu đàn tranh giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020. 

Những tư liệu nghiên cứu liên quan đến mảng âm nhạc truyền thống mà chúng tôi đã đề cập đến trong phần tổng quan, các tác giả đã đưa ra những phương pháp dạy và học đàn tranh đối với từng thể loại như nhạc phong cách Chèo, ca Huế và nhạc Tài tử - Cải lương. Tuy nhiên, những tài liệu nghiên cứu này không đề cập đến nghệ thuật diễn tấu của các tác phẩm mới được sáng tác cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020. 

Với những tài liệu giảng dạy liên quan đến đàn tranh, đã cung cấp cho chúng tôi số lượng lớn hệ thống bài bản nhạc phong cách cổ truyền hay các tác phẩm sáng tác mới, cũng như phương pháp diễn tấu các thể loại âm nhạc trên Đó chính là nguồn tư liệu tác phẩm quý báu chúng tôi sẽ sử dụng để minh chứng cho sự phát triển về kỹ thuật diễn tấu đàn tranh trong quá trình nghiên cứu luận án, từ đó mới có thể đánh giá về nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2000. 

1.2.2.2 Hướng nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở lựa chọn đề tài và mục tiêu nghiên cứu của luận án đề ra về việc nghiên cứu nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020. Chúng tôi sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Làm rõ khái niệm thuật ngữ và lựa chọn thuật ngữ dùng trong luận án.

- Trong quá trình nghiên cứu luận án, chúng tôi sẽ gặp gỡ các nghệ nhân để tìm hiểu và hệ thống các ngón đàn trong diễn tấu âm nhạc cổ truyền từ trước những năm 1956 mà ông cha ta đã xây dựng và truyền lại cho các thế hệ sau. Qua đó, chúng tôi mới có cơ sở tìm hiểu và đánh giá việc các tác giả, nghệ sĩ đã kế thừa, khai thác những ngón đàn nào của cha ông, từ đó tiếp tục sáng tạo những kỹ thuật diễn tấu mới trong sáng tác của họ giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020.

- Bên cạnh đó, để kết quả nghiên cứu luận án mang tính khoa học, tính xác thực và độ tin cậy cao, chúng tôi cũng sẽ gặp gỡ trực tiếp một số tác giả, nghệ sĩ đã  sáng tác và biểu diễn những tác phẩm viết cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020 để tìm hiểu cũng như thu thập thông tin về những đóng góp của họ với cây đàn tranh, để kết quả nghiên cứu luận án mang tính khoa học, tính xác thực và độ tin cậy cao.

- Chúng tôi sẽ tập trung đánh giá và phân tích một số tác phẩm mới tiêu biểu viết và chuyển soạn cho đàn tranh từ âm nhạc Nhật Bản và Trung Quốc nhằm đưa ra góc nhìn tổng quát về nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020.

- Phân tích một số tác phẩm tiêu biểu được các tác giả sáng tác và chuyển soạn cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020 và giới thiệu một số gương mặt nghệ sĩ tiêu biểu đã trình diễn thành công các tác phẩm đó, bổ sung những tác phẩm mới phù hợp viết cho đàn tranh trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 vào chương trình giảng dạy đàn tranh bậc cao học tại HVÂNQGVN. 

 

Tiểu kết chương 1

Để nghiên cứu về Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020, chúng tôi phải tiếp cận những nghiên cứu có liên quan đến cây đàn tranh Việt Nam, qua đó chúng tôi muốn mang đến một góc nhìn tổng thể, đa chiều về cây đàn tranh qua việc khảo cứu những tài liệu khác nhau có liên quan đến đề tài. Có như vậy, kết quả nghiên cứu của luận án mới phản ánh đầy đủ và trung thực những vấn đề đặc trưng của đối tượng nghiên cứu. 

Luận án của chúng tôi bắt đầu xây dựng cơ sở lý luận thông qua việc giải thích một số thuật ngữ chuyên ngành và nghiên cứu Sơ lược về vị trí và vai trò diễn tấu của đàn tranh Việt Nam, với nhiều nghiên cứu đã đề cập đến vị trí và vai trò diễn tấu đàn tranh với những phong cách âm nhạc cổ truyền như: phong cách Chèo, Huế, Tài tử - Cải lương nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến ứng dụng những kỹ thuật diễn tấu đó trong các tác phẩm âm nhạc được viết dựa trên chất liệu âm nhạc cổ truyền một cách chuyên biệt, rõ nét. Trong quá trình tìm nguồn tài liệu nghiên cứu luận án, chúng tôi đã may mắn tiếp cận được những kỹ thuật diễn tấu đàn tranh trong hệ thống bài bản các thể loại âm nhạc cổ truyền của ông cha ta từ giai đoạn trước năm 1956. Thông qua việc tìm hiểu kỹ những nghiên cứu đi trước, chúng tôi đã xác định được nội dung nghiên cứu của đề tài, nhằm giải quyết những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được đề cập.  

 

 

 

Chương 2

NGHỆ THUẬT DIỄN TẤU ĐÀN TRANH GIAI ĐOẠN

TỪ NĂM 1956 ĐẾN NĂM 2000

2.1 Giới thiệu một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu được sáng tác bởi các tác giả trong nước 

Để tìm hiểu sự phát triển của nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2000, chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích sự phát triển về kỹ thuật diễn tấu đàn tranh thông qua những tác phẩm tiêu biểu được viết cho đàn tranh trong giai đoạn này đã được nhiều nghệ sĩ lựa chọn biểu diễn…và được nhiều giải thưởng quốc gia. Bên cạnh đó chúng tôi sẽ giới thiệu một số gương mặt nghệ sĩ đã biểu diễn thành công và để lại dấu ấn riêng với khán giả trong mỗi tác phẩm mà họ đã góp mặt. 

2.1.1 Nhạc sĩ Xuân Khải

2.1.2 Nhạc sĩ Quang Hải

2.1.3 Nhạc sĩ Xuân Ba

2.1.4 Nghệ sĩ Vinh Ngọc

2.1.5 Nhà giáo Bích Vượng

2.1.6 Nghệ sĩ Phương Bảo

2.2 Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh qua các tác phẩm tiêu biểu được sáng tác bởi các tác giả trong nước

Năm 1956 là dấu mốc quan trọng nhất đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của âm nhạc truyền thống nói chung và nhạc cụ truyền thống Việt Nam trong đó có đàn tranh nói riêng khi chính thức được đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp. Đây là thời điểm khó khăn trong việc giảng dạy và học tập bởi ảnh hưởng của việc thiếu thốn từ cơ sở vật chất đến tài liệu, giáo trình, giáo án, sách vở. 

2.2.1 Giai đoạn từ năm 1956 đến năm 1975

Thời kỳ đầu, bên cạnh việc giảng dạy những bài bản cổ truyền nhằm bảo tồn vốn cổ của cha ông để lại thì những sáng tác mới cho đàn tranh cũng dần xuất hiện. Đó là những tiểu phẩm với quy mô nhỏ, những bài tập luyện ngón đàn trong nhạc Tài tử - Cải lương, nhạc Huế hay nhạc Chèo đã được chính các nghệ nhân, nghệ sĩ tự biên soạn để phục vụ cho công việc giảng dạy.

 Khi nói đến lịch sử phát triển của nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 1975, chúng tôi muốn điểm lại tên những tác phẩm mới được các nhạc sĩ, nghệ sĩ viết cho đàn tranh trong giai đoạn này trong phần phụ lục của luận án, bởi theo chúng tôi, tên tuổi của những tác giả và những sáng tác của họ đã thực sự gắn liền với sự phát triển trong nghệ thuật diễn tấu của cây đàn tranh.

2.2.1.1 Kỹ thuật diễn tấu 

Trong phần giải thích thuật ngữ ở chương 1 của luận án, chúng tôi đã giải thích nghệ thuật diễn tấu bao gồm cả phần kỹ thuật diễn tấu của một cây đàn. Vì vậy, trước tiên chúng tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề về kỹ thuật diễn tấu đàn tranh thông qua các tác phẩm được các nhạc sĩ viết trong giai đoạn này, để qua đó có thể thấy được đàn tranh đã được phát triển thế nào qua năm tháng. Trong mỗi tác phẩm, chúng tôi có điểm đến gương mặt nghệ sĩ chơi đầu tiên và những nghệ sĩ biểu diễn thành công tác phẩm ở những giai đoạn kế tiếp.

Trong các tác phẩm tiêu biểu được các nhạc sĩ sáng tác trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 1975, nhiều kỹ thuật diễn tấu mới của đàn tranh đã được các nhạc sĩ, nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo, không ngừng khám phá khả năng diễn tấu của cây đàn. Thông qua các tác phẩm mới này, các nghệ sĩ đàn tranh mới có cơ hội để thể hiện tài năng của mình trong lĩnh vực biểu diễn.

2.2.1.2 Nghệ thuật diễn tấu

Song song với sự phát triển về kỹ thuật diễn tấu đàn tranh, nghệ thuật diễn tấu của cây đàn cũng từng bước được hình thành và phát triển. Những năm đầu thập niên 60, khi mới được đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp, nghệ thuật diễn tấu đàn tranh còn rất sơ khai, chưa có gì nổi bật, cách trình diễn của người nghệ sĩ còn khá chân phương, đơn giản. Môi trường trình diễn trong giai đoạn này còn khá đơn giản, sân khấu biểu diễn lúc bấy giờ chỉ là văn phòng khoa hay là một sân khấu nhỏ mang tính chất sinh hoạt chuyên môn. Đàn tranh hoàn toàn diễn tấu mộc, không sử dụng micro. Trang phục không cầu kỳ, có khi chỉ là những bộ quần áo đẹp mặc đời thường hoặc những bộ áo dài đơn giản. Khi diễn tấu thường ngồi rất nghiêm túc, giống như cách diễn tấu trong thời kỳ đầu khi đàn tranh góp mặt trong các dàn nhạc cổ truyền, một đầu đàn được kê lên đùi của người chơi và đầu đàn còn lại được kê trên ghế hoặc đôn nhỏ. 

2.2.2 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000

Trải qua chặng đường dài phát triển, các thế hệ nghệ sĩ biểu diễn và các nhạc sĩ yêu mến cây đàn luôn khai thác những kỹ thuật diễn tấu mới để áp dụng vào sáng tác của mình. Hầu hết các tác phẩm viết cho đàn tranh trong giai đoạn này đều được các tác giả học hỏi phương pháp sáng tác theo phong cách cổ điển của âm nhạc phương Tây. Phần lớn các tác phẩm viết cho đàn tranh giai đoạn sau 1975 có cấu trúc chặt chẽ, tác phẩm có quy mô lớn hơn và đặc biệt khai thác nhiều hơn kỹ thuật diễn tấu, phần phối khí cũng được các tác giả chú trọng hơn những tác phẩm được viết trong giai đoạn trước đây.

Trong phần phụ lục của luận án,.chúng tôi xin được điểm lại những tác phẩm mới tiêu biểu viết cho đàn tranh đã gắn liền với sự phát triển nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000. 

2.2.2.1 Kỹ thuật diễn tấu

Căn cứ vào phần phân tích kỹ thuật diễn tấu đàn tranh giai đoạn trước năm 1975, chúng tôi nhận thấy theo thời gian, đàn tranh ngày càng có vị trí quan trọng trên sân khấu biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp. Bên cạnh việc trình diễn những bài bản cổ truyền, đàn tranh đã được các tác giả tìm tòi, khám phá để phát triển thêm những khả năng diễn tấu mới, nhằm đáp ứng được nhu cầu và thẩm mỹ âm nhạc của thời đại. Sau năm 1975, nhiều tác phẩm mới sáng tác cho đàn tranh đã ra đời với nhiều kỹ thuật diễn tấu mới được khai thác, mang lại những hiệu quả đặc biệt và tăng phần hấp dẫn cho tác phẩm nói riêng cũng như nghệ thuật diễn tấu đàn tranh nói chung. Chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích một số kỹ thuật diễn tấu nổi bật thông qua tác phẩm tiêu biểu được viết cho trong giai đoạn này. 

Để có một cái nhìn xuyên suốt về quá trình phát triển kỹ thuật diễn tấu đàn tranh kể từ khi được đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp từ năm 1956 đến năm 2000, trong phần phụ lục chúng tôi xin trình bày dưới dạng bảng biểu những kỹ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn này đã được các nhạc sĩ sáng tạo trong các tác phẩm của mình.

2.2.2.2 Nghệ thuật diễn tấu

Nghệ thuật diễn tấu các cây đàn truyền thống nói chung cũng như đàn tranh nói riêng giai đoạn sau 1975, phần nào đến gần với nhu cầu thưởng thức âm nhạc của khán giả. Đặc biệt, ngoài việc tập trung diễn tấu tác phẩm, hình thức diễn tấu cũng được các nghệ sĩ quan tâm hơn từ cách trình diễn, cách xử lý âm thanh, ánh sáng đến trang phục biểu diễn...

Môi trường diễn tấu giai đoạn này cũng được mở rộng hơn. Sân khấu biểu diễn không chỉ bó hẹp trong khán phòng, nhiều nghệ sĩ đã trình diễn trên sân khấu ngoài trời, nhằm quảng bá rộng rãi hơn hình ảnh cây đàn tranh tới khán giả

       Trang phục biểu diễn trong giai đoạn này cũng rất mới lạ so với những bộ áo dài mang phong cách truyền thống trong những giai đoạn trước đây. Họ thường chọn những bộ áo dài cách tân toát lên dáng vẻ hiện đại hay nhưng trang phục diễn tả được cá tính riêng của người nghệ sĩ. Sự gắn kết, hòa quyện giữa trang phục, âm nhạc, sân khấu và sự thăng hoa trong phần trình diễn của người nghệ sĩ sẽ tạo nên một tác phẩm âm nhạc hoàn hảo.

2.3 Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh qua các tác phẩm nước ngoài chuyển soạn

Để tìm hiểu, đánh giá một chặng đường phát triển nghệ thuật diễn tấu đàn tranh, bên cạnh việc phân tích những kỹ thuật và nghệ thuật diễn tấu các tác phẩm viết cho đàn tranh của các tác giả Việt Nam, thì việc phân tích và tìm hiểu những ngón đàn trong diễn tấu các tác phẩm nước ngoài chuyển soạn cũng rất cần thiết. Thông qua những nghiên cứu này, chúng tôi muốn đề cập đến việc tìm hiểu ngôn ngữ âm nhạc, nghệ thuật diễn tấu và bản sắc văn hóa của âm nhạc Nhật Bản và Trung Quốc. 

Trong phần phụ lục của luận án, chúng tôi đã lập bảng biểu so sánh đàn tranh Việt Nam với đàn koto Nhật Bản và đàn guzheng Trung Quốc với các tiêu chí như: đặc điểm cấu tạo, dây đàn, âm sắc, móng đàn đến các đặc điểm diễn tấu của hai bàn tay, thang âm… Qua đó, chúng tôi sẽ đưa ra những giải pháp phù hợp trong diễn tấu để có thể thu được hiệu quả cao khi chơi các tác phẩm nước ngoài chuyển soạn bằng đàn tranh Việt Nam

2.3.1 Nhóm tác phẩm âm nhạc Nhật Bản

2.3.1.1 Kỹ thuật diễn tấu nhóm tác phẩm Nhật Bản

2.3.1.2 Nghệ thuật diễn tấu nhóm tác phẩm Nhật Bản

Trên thực tế, khi diễn tấu các tác phẩm âm nhạc Nhật Bản chuyển soạn, chúng tôi nhận thấy các tác phẩm âm nhạc Nhật Bản thường có tốc độ chậm hơn các tác phẩm âm nhạc của Việt Nam, phải chăng đó cũng là sự ảnh hưởng của nghi lễ và phong tục mang đậm bản sắc dân tộc trong văn hóa Nhật Bản. Bởi vậy, đối với người nghệ sĩ khi diễn tấu tác phẩm chuyển soạn từ âm nhạc nước ngoài nói chung và âm nhạc Nhật Bản nói riêng, họ phải tìm hiểu về ngón đàn đặc trưng, đặc điểm âm nhạc, bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia để từ đó mới có thể diễn tấu được đúng tinh thần cũng như yêu cầu của tác phẩm.

2.3.2 Nhóm tác phẩm âm nhạc Trung Quốc

Trung Quốc có nền văn hóa lịch sử lâu đời, có thể nói là phong phú và đa dạng nhất trên thế giới. Để diễn tấu nhóm tác phẩm này, đòi hỏi ít nhất người thể hiện phải nắm được nét đặc trưng trong kỹ thuật diễn tấu cũng như tính chất âm nhạc của tác phẩm đó. 

2.3.2.1 Kỹ thuật diễn tấu nhóm tác phẩm Trung Quốc

2.3.2.2 Nghệ thuật diễn tấu nhóm tác phẩm Trung Quốc

Khi diễn tấu những tác phẩm chuyển soạn từ đàn guzheng của Trung Quốc và đàn koto của Nhật Bản cho đàn tranh độc tấu. Chúng tôi nhận thấy đặc điểm kỹ thuật diễn tấu các tác phẩm chuyển soạn tương đối giống với những kỹ thuật diễn tấu trong các tác phẩm mới viết cho đàn tranh nhưng điều làm nên sự khác biệt đó chính là kỹ thuật diễn tấu tay trái với những ngón đàn rung, nhấn, mang màu sắc riêng biệt, đặc trưng của mỗi quốc gia. Sự khác biệt về thang âm và yếu tố giai điệu cũng đã tạo nên bản sắc riêng trong âm nhạc của các tác phẩm chuyển soạn. 

Để có một cái nhìn tổng thể về kỹ thuật diễn tấu của đàn tranh Việt Nam, đàn koto Nhật Bản và đàn guzheng Trung Quốc. Trong phần phụ lục của luận án chúng tôi xin đưa ra bảng biểu so sánh về kỹ thuật diễn tấu thông qua những tác phẩm chuyển soạn đã được chúng tôi phân tích để thấy rõ hơn sự giống nhau và khác nhau về mặt kỹ thuật diễn tấu giữa ba cây đàn cùng họ của ba quốc gia này.  

 

Tiểu kết chương 2

Qua việc tìm hiểu và phân tích nghệ thuật diễn tấu đàn tranh giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2000 thông qua các tác phẩm âm nhạc được viết cho đàn tranh diễn tấu. Chúng tôi nhận thấy,những năm đầu thập niên 60 chính là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng của cây đàn, từ nền tảng kỹ thuật của cha ông để lại trước giai đoạn 1956, các nhạc sĩ, nghệ sĩ đã tìm tòi, sáng tạo những kỹ thuật mới cho đàn tranh diễn tấu. 

Phải đến những năm của thập niên 80, nghệ thuật diễn tấu đàn tranh mới thực sự ghi lại dấu ấn, những tác phẩm được viết trong giai đoạn này có trình độ kỹ thuật phức tạp hơn. Đàn tranh đã xuất hiện trên những sân khấu biểu diễn nghệ thuật có quy mô lớn. Cũng trong giai đoạn này, nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ đã rất quan tâm đến việc chuyển soạn một số tác phẩm nước ngoài cho đàn tranh diễn tấu. 

Bên cạnh sự phát triển về kỹ thuật diễn tấu thì chính những gương mặt nghệ sĩ biểu diễn thành công những tác phẩm mới được sáng tác và chuyển soạn cho đàn tranh đã thực sự góp phần không nhỏ trong việc phát triển nghệ thuật diễn tấu của cây đàn. 

 

Chương 3

NGHỆ THUẬT DIỄN TẤU ĐÀN TRANH GIAI ĐOẠN

 TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2020

3.1. Giới thiệu một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu

Vào khoảng những năm cuối thế kỷ XX, trên thế giới đã xuất hiện nhiều trào lưu âm nhạc được sáng tác theo ngôn ngữ mới không còn bị bó buộc trong khuôn khổ sáng tác theo phong cách cổ điển. Trong giai đoạn này, tư duy sáng tác của các nhạc sĩ đã có nhiều thay đổi, sáng tạo, giai điệu của tác phẩm không bị bó hẹp theo tuyến chủ đề, cấu trúc tác phẩm tương đối tự do, phá cách. Nội dung tác phẩm phong phú đa dạng, khai thác triệt để các khía cạnh của cuộc sống làm ý tưởng sáng tác. Nhiều kỹ thuật diễn tấu mới lạ với những cách thức diễn tấu đặc biệt được đưa vào tác phẩm để khám phá mọi khả năng biểu đạt của nhạc cụ.

3.1.1 Nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo

3.1.2 Nhạc sĩ Nguyễn Huỳnh Tú (Huỳnh Tú)

3.1.3 Nhạc sĩ Võ Vân Ánh

3.1.4 Nhạc sĩ Lương Huệ Trinh

3.1.5 Nghệ sĩ Vũ Đỗ Quang Minh (Quang Minh)

3.2. Những đặc điểm trong ngôn ngữ sáng tác

3.2.1 Thang âm

Các tác phẩm âm nhạc của hai nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo và Lương Huệ Trinh thường dùng bút pháp sáng tác theo trào lưu âm nhạc mới, khai thác thể loại âm nhạc không rõ điệu tính với rất nhiều nốt nhấn bán cung non già... và khi âm thanh vang lên sẽ khác với màu sắc âm nhạc Việt Nam trong các tác phẩm mới được viết cho đàn tranh trong giai đoạn trước đây. 

Một điểm tương đối khác biệt trong thang âm và cách lên dây đàn các tác phẩm viết cho đàn tranh của nhạc sĩ Võ Vân Ánh, Huỳnh Tú và Quang Minh. Đó là, họ thường quy định giọng điệu, dấu hóa rõ ràng ngay từ đầu tác phẩm và lên dây theo thang âm đã được quy định sẵn.

3.2.2 Cấu trúc giai điệu

Những tác phẩm được viết cho đàn tranh diễn tấu trong giai đoạn này của nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo và Lương Huệ Trinh thường xuất hiện nhiều dấu thăng giáng bất thường, những nốt bán cung non già, đã làm cho người biểu diễn cũng như người thưởng thức được bước đến một thế giới thẩm mỹ âm nhạc mới, mà ở đó tính giai điệu trong tác phẩm không được thể hiện rõ.

Trái ngược với cách tư duy về giai điệu của hai tác giả kể trên, các tác phẩm âm nhạc của các nhạc sĩ Huỳnh Tú, Võ Vân Ánh, Quang Minh luôn chú trọng đến việc khai thác đường nét giai điệu đẹp, chất liệu âm nhạc thường được khai thác dựa trên màu sắc của âm nhạc dân gian Việt Nam.

3.2.3 Luật nhịp

Luật nhịp, cũng là một điểm đáng chú ý về đặc điểm âm nhạc được thể hiện trong các tác phẩm viết cho đàn tranh giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020. Trong tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo, luật nhịp không cố định, luôn thay đổi hoặc thậm chí không có luật nhịp. 

Các tác phẩm viết cho đàn tranh của tác giả Huỳnh Tú, Võ Vân Ánh, Lương Huệ Trinh và Quang Minh thường có quy định về luật nhịp và tiết tấu có phần đơn giản hơn. Luật nhịp được quy định rõ ràng ngay ở đầu mỗi câu nhạc, đoạn nhạc và trong mỗi trường đoạn các tác giả đều ghi rõ tốc độ chơi nhanh chậm quy định theo ý tưởng của tác giả. 

3.2.4 Hòa âm

Đàn tranh là cây đàn dân tộc có hệ thống lên dây theo thang 5 âm nên sẽ gặp khá nhiều hạn chế khi diễn tấu các tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng trào lưu âm nhạc mới. Đàn tranh khi hòa tấu với các nhạc cụ dân tộc khác cũng chỉ dừng lại ở mức độ diễn tấu những chồng âm đơn giản. Song, trong các tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo luôn xuất hiện những chồng âm nghịch, những nốt thăng giáng non già, chứ không đơn thuần là những hợp âm thuận được viết trên dây buông. 

       Nhìn chung, những tác phẩm của các nhạc sĩ sáng tác cho đàn tranh trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XXI này đều quan tâm đến việc khai thác hòa âm, thậm chí những hợp âm nghịch cũng được các tác giả tìm tòi, thử nghiệm trong các sáng tác của mình nhằm tạo ấn tượng riêng với người thưởng thức.  

3.2.5 Khai thác yếu tố âm nhạc truyền thống

Trong các tác phẩm viết cho đàn tranh giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020, cho dù là tác phẩm hòa tấu lớn hay nhỏ (với dàn nhạc lớn hay với tốp nhạc nhỏ), hầu như các tác giả đều dành những trường đoạn ở giữa tác phẩm cho đàn tranh độc tấu: lúc là một câu vỉa của nhạc Chèo, khi là một câu dạo của nhạc Tài tử - Cải lương hay một câu dạo cho ngâm thơ… mang đậm chất liệu âm nhạc truyền thống nhưng cách quy ước trong tác phẩm của họ thì tương đối khác nhau.

3.2.6 Cường độ âm thanh

Trong các tác phẩm viết cho đàn tranh ở giai đoạn trước đây, thông thường chỉ quy định về xử lý cường độ âm thanh ở đầu mỗi phần hay mỗi đoạn nhạc nhưng trong tác phẩm của các nhạc sĩ giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020, các chỉ dẫn về cường độ âm thanh, cách chơi tay phải, tay trái đều ghi chỉ dẫn cụ thể, chi tiết.

3.2.7 Kỹ thuật đàn hòa ca

Trong tác phẩm viết cho đàn tranh của tác giả Võ Vân Ánh đã viết phần hát cho chính người diễn tấu vừa đàn, vừa hát. Lúc này giai điệu chính sẽ nằm ở phần lời ca với những ca từ phù hợp với chủ đề của tác phẩm, phần diễn tấu nhạc cụ chỉ mang chức năng đệm, phụ họa cho phần lời hát tạo màu sắc âm nhạc cho tác phẩm.

3.3 Kỹ thuật diễn tấu đàn tranh

3.3.1 Xử lý cao độ

Đàn tranh là một nhạc cụ truyền thống, ít khi diễn tấu những tác phẩm có dấu hóa bất thường, chắc chắn sẽ gặp trở ngại lớn khi diễn tấu những tác phẩm âm nhạc phi điệu tính. Vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng để có thể xác định được cao độ chuẩn xác là đòi hỏi đầu tiên trước khi bắt đầu luyện tập tác phẩm.

3.3.1.1 Dấu hóa bất thường

3.3.1.2 Xử lý cao độ các âm non già

3.3.2 Xử lý luật nhịp

Trong các tác phẩm âm nhạc được các nhạc sĩ sáng tác cho đàn tranh diễn tấu giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020, phần lớn đều có những quy định rõ ràng về luật nhịp, riêng một số tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo có phần phức tạp hơn về luật nhịp. 

3.3.2.1 Những phần có chỉ dẫn luật nhịp

3.3.2.2 Đan xen giữa có luật nhịp và không có luật nhịp

3.3.2.3 Không có luật nhịp

3.3.3 Xử lý cường độ âm thanh

Có thể nói, các nhạc sĩ viết các tác phẩm cho đàn tranh diễn tấu trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2020 đã tiếp thu cách ghi các chỉ dẫn, ký hiệu xử lý cường độ âm thanh của âm nhạc phương Tây để áp dụng vào trong sáng tác của mình. Việc này sẽ rất thuận lợi cho người nghệ sĩ trong quá trình biểu diễn, họ sẽ căn cứ vào những ký hiệu đã được chỉ dẫn, quy định sẵn để diễn tấu được đúng ý tưởng của tác giả. Đối với các nghệ sĩ chơi nhạc cụ dân tộc, khi diễn tấu tác phẩm âm nhạc được viết trong giai đoạn này sẽ phải làm quen dần với các chỉ dẫn này mới có thể hiểu và thể hiện đúng ý tưởng của tác phẩm.

3.3.4 Kỹ thuật diễn tấu kết hợp hai tay

Trong kỹ thuật diễn tấu đàn tranh, chức năng diễn tấu của tay trái là để nuôi dưỡng âm thanh với những ngón đàn rung, nhấn, nảy, vỗ… tạo màu sắc âm nhạc vùng miền. Khi diễn tấu kết hợp hai tay cùng lúc thì chức năng diễn tấu ngón đàn tay trái sẽ bị mất đi và kỹ thuật diễn tấu lúc này đơn thuần sẽ biến thành một nhạc cụ dây gẩy kiểu phương Tây, hiệu quả âm thanh sẽ nghiêng về chơi bè phức điệu giống như đàn harp, không còn những nốt nhấn nhá của ngón đàn tay trái.

3.3.5 Kỹ thuật mới

3.3.5.1 Kỹ thuật ngón vuốt kết hợp ép nhún

Kỹ thuật ép nhún này chưa từng xuất hiện trong các tác phẩm được viết cho đàn tranh trong giai đoạn trước đây. Nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo là người sáng tạo và lần đầu tiên đưa kỹ thuật ép nhún vào thử nghiệm trong các tác phẩm viết cho đàn tranh diễn tấu.

3.3.5.2 Kỹ thuật đàn hòa ca

Đàn tranh không chỉ diễn tấu độc lập mà còn đi với giọng hát. Ở đây, giọng hát được coi như âm sắc của một nhạc cụ đi bè giai điệu chính, phần tay phải chạy những âm rải, mang tính chất bè đệm cho phần lời ca. 

3.3.5.3 Kỹ thuật diễn tấu 4 tay 

Lần đầu tiên trong Hoa Quỳnh kỹ thuật diễn tấu 4 tay được tác giả Quang Minh sáng tạo, áp dụng trong tác phẩm viết cho đàn tranh. Sự sáng tạo này đã thực sự mang tính đột phá trong nghệ thuật diễn tấu đàn tranh, đòi hỏi mỗi nghệ sĩ phải có những trình độ nhất định mới có thể diễn tấu tốt được trường đoạn này. 

Chưa bàn đến cảm nhận hay dở thế nào trong các tác phẩm âm nhạc được viết trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 của các nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo, Huỳnh Tú, Võ Vân Ánh, Lương Huệ Trinh và Quang Minh nhưng việc nghệ sĩ biểu diễn có thể sáng tạo, ngẫu hứng và phô diễn tất cả những kỹ thuật diễn tấu đàn tranh đã thực sự tạo ấn tượng mạnh mẽ đến người thưởng thức.

Cây đàn tranh trong giai đoạn này đã xuất hiện với diện mạo mới, thông qua những tác phẩm mang đầy tính sáng tạo mà các nhạc sĩ luôn hướng đến với mong muốn khai thác được nhiều hơn nữa khả năng diễn tấu phong phú của cây đàn tranh Việt Nam.  

Để có một cái nhìn tổng quát về sự phát triển kỹ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020, trong phần phụ lục của luận án chúng tôi đã lập bảng tổng kết về kỹ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn này để thấy được sự phát triển vượt bậc trong kỹ thuật diễn tấu của cây đàn. 

3.4 Một số đặc điểm về nghệ thuật diễn tấu

3.4.1 Sự ảnh hưởng của tư duy người nghệ sĩ đối với việc trình diễn

Trước hết, cách tư duy âm nhạc của mỗi nghệ sĩ khi diễn tấu những tác phẩm âm nhạc được viết cho đàn tranh giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 là rất quan trọng. Họ sẽ phải phá bỏ hoàn toàn và thoát ra khỏi lối tư duy theo cách diễn tấu những tác phẩm âm nhạc được viết trong giai đoạn trước đây. 

3.4.2 Quan điểm về phong cách trình diễn

Phong cách trình diễn của người nghệ sĩ đã có nhiều sự sáng tạo, phô trương những thế mạnh trong kỹ thuật diễn tấu, có tính tương tác rất cao giữa nghệ sĩ với nghệ sĩ và nghệ sĩ với khán giả. 

Có rất nhiều tác phẩm được viết theo phong cách ngẫu hứng, nhạc sĩ chỉ đưa ra những gợi ý về ý tưởng sáng tác, người nghệ sĩ chính là nhạc sĩ sáng tác thứ hai, có thể tự do thăng hoa sáng tạo theo cảm xúc của riêng mình. Cách viết này đã tạo ra những không gian mở cho người nghệ sĩ, có cơ hội được thể hiện khả năng sáng tạo của mình trong việc xử lý kỹ thuật cũng như nghệ thuật diễn tấu. 

Họ luôn mang tâm thế là những nghệ sĩ tiên phong đang trên con đường đi tìm những điều mới mẻ trong nghệ thuật diễn tấu, không sợ khó khăn, không sợ các quan điểm âm nhạc bảo thủ từ chối tiếp thu những kiến thức mới, luôn đối mặt với thử thách trong quá trình sáng tạo, với mong muốn vượt qua chính lối mòn của bản thân và tìm cho mình con đường mới đưa nghệ thuật diễn tấu đàn tranh ngày càng được phát triển.

 

Tiểu kết chương 3

Một điểm chung khá đặc biệt trong một số tác phẩm của các nhạc sĩ sáng tác trong giai đoạn này đó là sự gợi mở của chủ đề âm nhạc, khá tự do về cấu trúc, tạo điều kiện cho người nghệ sĩ thể hiện tác phẩm theo cảm xúc, sáng tạo và tài năng của riêng mình. Có thể nói, khi trình diễn, người nghệ sĩ được coi là nhạc sĩ thứ hai của tác phẩm. Để sự sáng tạo không vượt ra ngoài ranh giới về ý tưởng sáng tác và yêu cầu mà tác giả mong muốn, người nghệ sĩ khi trình diễn những tác phẩm sáng tác trong giai đoạn này ngoài việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách kĩ lưỡng, chi tiết về tác phẩm còn phải biết vận dụng không gian biểu diễn, tìm phương pháp, hình thức diễn tấu phù hợp, lắng nghe, quan sát và tương tác với các nghệ sĩ cùng trên sân khấu

Chưa bàn đến đánh giá của người nghe cũng như của giới chuyên môn về tác phẩm, nhưng việc tìm tòi những kỹ thuật mới cũng như sáng tạo trong phương pháp diễn tấu nhằm tận dụng và phát huy khả năng biểu đạt của đàn tranh trong các tác phẩm giai đoạn từ năm 2000 đến 2020 đã góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong giai đoạn này.

KẾT LUẬN

Nhìn lại quá trình phát triển của cây đàn tranh kể từ khi được đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp từ năm 1956 đến năm 2020, để nghệ thuật diễn tấu đàn tranh có được vị trí như ngày hôm nay, chúng ta không thể phủ nhận công sức đóng góp của rất nhiều thế hệ nhạc sĩ, nghệ sĩ yêu mến cây đàn, họ đã dành rất nhiều tâm huyết, trí tuệ, sức lực của mình để khai thác, sáng tạo nhiều kỹ thuật mới và sáng tác các tác phẩm cho đàn tranh diễn tấu. Thông qua các tác phẩm của họ, những nghệ sĩ biểu diễn đàn tranh mới có cơ hội thể hiện khả năng diễn tấu của bản thân và khai thác nhiều hơn thế mạnh của cây đàn, với mong muốn để đàn tranh luôn khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong kho tàng các nhạc cụ dân tộc Việt Nam, trên các sân khấu biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như đến được gần hơn với khán giả trong và ngoài nước. 

Trải qua hơn sáu thập kỷ được đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp, nghệ thuật diễn tấu đàn tranh ở nước ta đã có những bước phát triển đáng ghi nhận ở cả hai lĩnh vực: đào tạo và biểu diễn, đóng góp được những thành tựu nhất định trong đời sống âm nhạc nước nhà, gìn giữ, bảo tồn và quảng bá, phát triển vốn âm nhạc cổ truyền của cha ông ta để lại. Mặc dù còn nhiều khó khăn do khách quan mang lại, nghệ thuật diễn tấu đàn tranh chuyên nghiệp đã có không ít những thành tích, đóng góp vào sự phát triển trong lĩnh vực âm nhạc nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung của Việt Nam trong giai đoạn mới, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Có rất nhiều nghệ sĩ biểu diễn đàn tranh đã gắn liền tên tuổi của mình với cây đàn và cũng chính họ đã là người truyền cảm hứng cho những người yêu cây đàn dân tộc có màu sắc âm thanh độc đáo và kỹ thuật diễn tấu đa dạng, phong phú này.

Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, với vô vàn biến động về đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa. Việc vẫn gìn giữ được những giá trị truyền thống trong âm nhạc nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung là vô cùng khó. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải có trách nhiệm quảng bá và phát triển những giá trị truyền thống mà cha ông ta để lại. Trong nghệ thuật diễn tấu đàn tranh, phát triển và làm mới âm nhạc cổ truyền để có thể phù hợp với thẩm mỹ âm nhạc của thời đại mà không mất đi những giá trị truyền thống cốt lõi là sự trăn trở của các thế hệ giảng viên và nghệ sĩ và các nhạc sĩ viết tác phẩm cho đàn tranh. 

Với những thành công về nghệ thuật diễn tấu đã được chứng minh trong việc được các nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp, chúng ta có thể chọn lọc, bổ sung những tác phẩm mới sáng tác cho đàn tranh giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 vào chương trình giảng dạy trong các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp. Những tác phẩm này sẽ làm phong phú thêm tài liệu học tập, là cơ sở cho học sinh, sinh viên cũng như các nghệ sĩ tiếp cận với phong cách sáng tác cũng như kỹ thuật diễn tấu mới, là một trong những nhân tố quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật diễn tấu đàn tranh. 

Với kết quả nghiên cứu của luận án, bên cạnh việc tìm tòi, phát huy những thế mạnh trong nghệ thuật diễn tấu đàn tranh, chúng tôi mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé trong việc gìn giữ, bảo tồn những giá trị truyền thống của cha ông ta để lại, và hy vọng vị thế của cây đàn sẽ ngày càng được khẳng định trong giới chuyên môn, với khán giả yêu mến đàn tranh, cũng như trong kho tàng các nhạc cụ dân tộc Việt Nam.

KHUYẾN NGHỊ

Để nghệ thuật diễn tấu đàn tranh có thể phát triển trong tương lai, phục vụ hiệu quả hơn nữa trong đời sống âm nhạc Việt Nam cũng như tạo những tiếng vang trong sự phát triển của nền âm nhạc thế giới. Chúng ta cần có những nghiên cứu định hướng mới trong sáng tác, đào tạo, biểu diễn và nghiên cứu nhằm xây dựng những lớp nghệ sĩ kế cận giỏi về chuyên môn cũng như có khả năng đưa nghệ thuật diễn tấu đàn tranh lên một tầm cao mới. 

  1. Trong sáng tác: Hiện tại số lượng tác phẩm mới viết cho đàn tranh còn nhiều hạn chế, những tác phẩm vừa giữ được nét âm nhạc truyền thống mà vẫn mang đậm màu sắc âm nhạc mới vẫn chưa có nhiều. Các nhạc sĩ có thể tham khảo và đi theo hướng sáng tác mà một số nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 đã làm, đồng thời có thể tạo ra những hướng tiếp cận mới như: đàn tranh kết hợp với dàn nhạc điện tử, nhạc rap, tham gia những chương trình tạp kỹ kết hợp với âm thanh và ánh sáng hiện đại…
  2. Trong công tác đào tạo: Hiện nay ở HVÂNQGVN mới có chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành sư phạm âm nhạc, chưa có hệ đào tạo thạc sĩ biểu diễn chuyên ngành nhạc cụ dân tộc và chương trình phần lớn vẫn sử dụng lại những bài bản của bậc đại học. Chúng tôi tin rằng với lượng bài bản được bổ sung, phù hợp với nhu cầu cũng như trình độ đào tạo, chúng ta có thể mở được ngành biểu diễn đàn tranh ở bậc cao học. Chúng tôi mạnh dạn bổ sung những tác phẩm mới viết cho đàn tranh vào chương trình giảng dạy đào tạo bậc thạc sĩ biểu diễn đàn tranh tại HVÂNQGVN như sau: 

Phần bài tập nâng caokhối lượng bài tập kỹ thuật nâng cao tương ứng với phần kỹ thuật mới, bổ trợ cho phần diễn tấu tác phẩm, chiếm tỉ lệ 20%.

Phần âm nhạc cổ truyền: tiếp tục học và nâng cao ngón đàn trong nhạc phong cách Chèo, Huế, Tài tử - Cải lương, chiếm tỷ lệ 25%. 

Phần tác phẩm mới được sáng tác trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2000: tiếp tục học những tác phẩm mới sáng tác có kỹ thuật diễn tấu tương ứng bậc đào tạo thạc sĩ, tỷ lệ 30 %

Phần tác phẩm mới được sáng tác giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020: tỷ lệ 25%.

  1. Trong biểu diễn: 

Trong quá trình làm việc và biểu diễn, chúng tôi nhận thấy tốc độ của những bài nhạc cổ truyền đã được các nghệ sĩ diễn tấu nhanh hơn so với những bản đàn mà trước đây được chơi bởi các nghệ nhân. Đây là điểm mà các nghệ sĩ cần phải lưu ý khi diễn tấu các bài bản cổ truyền, cần phải nghiên cứu kỹ bài bản để đàn đúng hơi, đúng chất nhạc phong cách đó chứ không bị cuốn theo nhịp sống hối hả, gấp gáp của cuộc sống ngày nay.

         Theo quan điểm riêng của chúng tôi, cần lưu tâm hơn đến sự tinh tế của tác phẩm, không nên cho rằng âm thanh được khuếch đại càng to mới là một tác phẩm có quy mô lớn. Một vấn đề nữa đã tồn tại rất lâu nhưng chưa có ai mạnh dạn thay đổi, đó là hầu như phần phối khí các tác phẩm đều sử dụng đàn ghita bass và có rất nhiều tác phẩm còn sử dụng cả đàn cello - là một nhạc cụ phương Tây. Chúng tôi thiết nghĩ nên thay đàn ghita bass bằng đàn tứ đại và đàn cello thay bằng đàn nhị hồ thì sẽ phù hợp và hiệu quả hơn. 

  1. Nghiên cứu khoa học: Trong hơn 65 năm được đưa vào hệ thống giảng dạy và đào tạo chuyên nghiệp, đàn tranh là một trong những cây đàn dân tộc đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng của mình trong kho tàng nhạc khí dân tộc Việt Nam. Để cho cây đàn tranh ngày càng được phát triển mang tính chuyên nghiệp thì việc xây dựng những công trình khoa học mang tính chuyên sâu thật sự rất là cần thiết và mang tính cấp bách. 

Chúng tôi thiết nghĩ rất cần thiết có những đề tài nghiên cứu chuyên sâu về độ tuổi nào phù hợp, có thể bắt đầu theo học chuyên nghiệp bộ môn đàn tranh, để có thể phát huy hết thế mạnh của lứa tuổi cũng như có thể tiếp thu, trau dồi những kỹ năng biểu diễn để thu được hiệu quả tốt nhất. 

Hiện nay, có rất nhiều loại đàn tranh, những cây đàn tranh được các nghệ nhân cải tiến với số dây nhiều hơn và âm vực cũng được mở rộng hơn hay như theo trào lưu cũng đã xuất hiện nhiều cây đàn cổ cầm và đàn guzheng Trung Quốc... Vậy theo quan điểm của chúng tôi, cần phải có những đề tài nghiên cứu về quy chuẩn những cây đàn tranh nào được đưa vào để sử dụng trong giảng dạy và thực hành trong phạm vi các cơ sở đào tạo đàn tranh chuyên nghiệp trên cả nước. 

Trong chương trình, giáo trình giảng dạy cũng rất cần một sự nghiên cứu nghiêm túc để có thể đưa ra tỉ lệ phần trăm cho từng học phần trong chương trình giảng dạy như: số lượng bài bản kỹ thuật, bài bản các thể loại nhạc phong cách hay số lượng những tác phẩm mới được đưa vào trong chương trình giảng dạy sao cho phù hợp và cân đối để có thể thu được kết quả tốt nhất trong đào tạo. 

Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020. Với mong muốn được góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển âm nhạc truyền thống nói chung và cây đàn tranh Việt Nam nói riêng, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này. Chúng tôi cũng tin tưởng rằng, nghệ thuật diễn tấu của cây đàn tranh Việt Nam sẽ ngày càng phát triển hơn nữa, nhằm đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao trong đời sống âm nhạc truyền thống Việt Nam và đáp ứng được với công cuộc hội nhập của đất nước, mang hơi thở của thời đại. Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đồng thời với lòng mong muốn nghệ thuật diễn tấu của đàn tranh Việt Nam ngày càng phát triển, chúng tôi có những khuyến nghị như sau:

Tăng cường giao lưu biểu diễn, giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực liên quan đến cây đàn tranh với các cơ sở đào tạo đàn tranh chuyên nghiệp trong cả nước cũng như với những nước có những cây đàn cùng họ với đàn tranh Việt Nam để thông qua đó khắc phục những bất cập và học hỏi những việc liên quan đến nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam.

Cần thường xuyên cập nhật giáo trình, giáo án, thường xuyên bổ sung các tác phẩm mới vào trong chương trình giảng dạy của các bậc đào tạo. Đầu tư hơn nữa trong việc sưu tầm, bảo quản in ấn có bài bản, hệ thống các bản nhạc cổ truyền từ các nghệ nhân chứ không chỉ là những bản nhạc cổ chép tay tam sao thất bản. 

Thường xuyên tổ chức các buổi biểu diễn, giao lưu giữa nhà trường và các đoàn nghệ thuật để thầy trò và các nghệ sĩ được trau dồi các kỹ năng biểu diễn.

Cần bổ sung môn sáng tác vào trong chương trình đào tạo để các em học sinh, sinh viên có thể tự viết những tác phẩm cho đàn tranh độc tấu, bổ sung vào chương trình giảng dạy. Khuyến khích thi tác phẩm tự sáng tác ở năm tốt nghiệp bậc cao học.

Ngoài các lớp hòa tấu âm nhạc cổ truyền, cần tăng cường bổ sung thời lượng học phần đào tạo bậc đại học cho bộ môn hòa tấu các tác phẩm mới để sau khi tốt nghiệp, các em có thể tự tin hơn khi tham gia biểu diễn cùng dàn nhạc lớn.

Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đàn tranh, xây dựng, đào tạo đội ngũ giảng viên “nguồn” bằng nhiều hình thức như: gửi các giảng viên, sinh viên xuất sắc đi học tập, giao lưu với các nước có đàn cùng họ với đàn tranh Việt Nam để học hỏi, trau dồi thêm kinh nghiệm biểu diễn, từ đó áp dụng một cách hợp lý vào nghệ thuật diễn tấu của đàn tranh Việt Nam.

Hỗ trợ đội ngũ giảng viên, học viên, sinh viên xuất sắc tham gia các hoạt động, hội thảo, trại sáng tác để qua đó chúng ta tiếp tục có những sáng tác mới được bổ sung, cập nhật trong chương trình, giáo trình đào tạo cũng như biểu diễn. 

Tác giả: Phạm Thị Trà My 
Đề tài: "Nghệ thuật diễn tấu đàn tranh Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm 2020"
Chuyên ngành: Âm nhạc học
Mã số: 62.21.02.01.
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Phương Hoa  
Ngày đăng: 12/5/2023 

Toàn văn Luận án

Tóm tắt Luận án

 

Đầu trang
  
English


Các khoa, bộ môn
Khoa Piano
Khoa Dây
Khoa Kèn - Gõ
Khoa Accordion - Guitar- Organ
Khoa nhạc Jazz
Khoa Thanh nhạc
Khoa Âm nhạc Truyền thống
Khoa Sáng tác - Chỉ huy - Âm nhạc học
Khoa Kiến thức Âm nhạc
Khoa Văn hoá và Kiến thức cơ bản

Quảng cáo
Liên hệ quảng cáo
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
77 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội
ĐT: +844 3851 4969 / 3856 1842 - Fax: +844 3851 3545
Website: www.vnam.edu.vn - Email: hvan@vnam.edu.vn