Trang chủ
Giới thiệu
Tổ chức
Ba công khai
Hoạt động
Tuyển sinh
Đào tạo
Biểu diễn
Nghiên cứu
Hợp tác quốc tế
Liên hệ

Kỷ niệm 65 năm thành lập Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam
Giảng viên
Sinh viên
Quản lý Đào tạo
Thư điện tử
e-VNAM
Học bạ điện tử
Tin ảnh

Lượt truy cập: 12217401
Tin tức hoạt động Thứ sáu, 19/04/2024

Tác giả: Phạm Thị Huyền Trang
Đề tài: Giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu tại trường Đại học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội
Chuyên ngành: PPGDCNAN (Đàn Bầu)
Mã số: 60.21.02.02
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Huy Phương 
Ngày đăng: 08/10/2016

Toàn văn Luận văn

Tóm tắt Luận văn:

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:                               

      Đàn Bầu là nhạc cụ rất độc đáo của người Việt. Tuy chỉ có một dây với cấu trúc đơn giản, nhưng cây đàn có thể tạo ra những âm thanh độc đáo, ngọt ngòa, trong trẻo gần với giọng người và có sức quyến rũ kỳ lạ, được người Việt Nam ưa chuộng và nhiều bạn bè trên thế giới yêu thích. Đàn Bầu là nhạc cụ không thể thiếu được trong các loại hình âm nhạc cổ truyền chuyên nghiệp đến các sân khấu ca kịch truyền thống: Chèo, Tuồng, Cải Lương...

Tại trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội (ĐHVHNTQĐ), học sinh được dành cả một năm để học chuyên sâu về âm nhạc Chèo. Sân khấu Chèo nói chung và âm nhạc Chèo nói riêng là một loại hình nghệ thuật rất khó, đòi hỏi sinh viên phải có một trình độ âm nhạc nhất định mới có thể tiếp cận, cảm nhận và thể hiện tốt được các làn điệu này. Bộ môn đàn Bầu cũng không vượt ra khỏi quy luật đào tạo chung, khoa Nghệ thuật Dân tộc và Miền núi với mục tiêu giảng dạy cho các sinh viên có kiến thức âm nhạc toàn diện, biết chơi một cách bài bản cả 3 phong cách nhạc cổ: Chèo, Huế, Tài tử – Cải lương và cả những tác phẩm mới, nhằm đào tạo ra đội ngũ nghệ sĩ – diễn viên – nhạc công hoạt động nghệ thuật dân tộc bổ sung cho các đoàn nghệ thuật và đơn vị cơ sở trong toàn quân. Nhìn chung, chương trình học đàn Bầu tại ĐHVHNTQĐ đã đáp ứng được phần nào yêu cầu đó. Tuy nhiên do nội dung chương trình quá rộng với nhiều phong cách âm nhạc khác nhau, vì vậy sinh viên không có điều kiện tiếp xúc sâu với những bài bản cổ, số lượng bài bản còn rất khiêm tốn, hình thức hòa tấu nhạc cổ vẫn chưa được chú trọng, dẫn đến chất lượng đào tạo vốn nhạc cổ chưa cao so với lối đào tạo chuyên sâu một phong cách (hoặc Chèo, hoặc Tuồng, hoặc Cải lương) vốn đang được áp dụng tại một số trường chuyên đào tạo Sân khấu kịch hát dân tộc.

Với mong muốn đi sâu tìm tòi, nghiên cứu nhằm bảo tồn âm nhạc truyền thống của dân tộc, đồng thời giúp sinh viên tiếp cận nhanh với nhạc cổ và luyện tập có hiệu quả, góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng giảng dạy đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ, tôi chọn viết Luận văn cao học phương pháp giảng dạy chuyên ngành với đề tài Giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ”.

2. Lịch sử đề tài

            Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Chèo nói chung và âm nhạc Chèo nói riêng, trong đó có một số công trình nghiên cứu về các nhạc cụ truyền thống được sử dụng trong âm nhạc Chèo. Tuy nhiên mới chỉ có một vài đề tài nghiên cứu viết cho đàn Bầu:

            Các công trình kể trên đều nghiên cứu, phân tích sâu một số vấn đề về việc giảng dạy đàn Bầu. Chỉ có 2 đề tài đi sâu nghiên cứu về giảng dạy Chèo cho đàn Bầu:

            Luận văn “Nghiên cứu một số đặc điểm trong việc giảng dạy bài bản Chèo cổ đối với đàn Bầu tại Nhạc viện Hà Nội” tốt nghiệp cao học chuyên ngành sư phạm chuyên ngành đàn Bầu của Ths Ngô Trà My tập trung nghiên cứu những đặc điểm trong việc dạy và học các bài bản Chèo đối với cây đàn Bầu tại trường Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam).

Luận văn “Nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu tại Học viện Âm nhạc Huế” tốt nghiệp cao học chuyên ngành sư phạm chuyên ngành đàn Bầu của Ths Nguyễn Văn Vui nghiên cứu thực trạng giảng dạy nhằm đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như diễn tấu Chèo của học sinh đàn Bầu tại Học viện Âm nhạc Huế.

      Chúng tôi nhận thấy cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập, nghiên cứu, phân tích về phương pháp sư phạm chuyên ngành đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ.

     3.Mục đích nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá nhằm phát hiện những đặc điểm cơ bản của âm nhạc Chèo trong diễn tấu trên đàn Bầu,  từ đó đi sâu tìm hiểu việc giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu, đồng thời, phân tích tâm sinh lý, trình độ tiếp nhận của học sinh, sinh viên từng cấp học, đối chiếu với chương trình giảng dạy âm nhạc Chèo cho đàn Bầu tại ĐHVHNTQĐ, từ đó tìm ra phương pháp dạy học đem lại kết quả cao hơn.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi xác định những đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:

- Nội dung, chương trình giảng dạy Chèo cho đàn Bầu của trường ĐHVHNTQĐ.

- Giáo trình giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu của trường ĐHVHNTQĐ (số lượng bài bản, nội dung bài bản...)

- Phương pháp giảng dạy các làn điệu Chèo trên đàn Bầu cho HSSV trong hệ thống giáo trình giảng dạy đàn Bầu của bậc TC và ĐH tại trường ĐHVHNTQĐ.

- HSSV học đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số làn điệu Chèo trong chương trình đào tạo bộ môn đàn Bầu tại ĐHVHNTQĐ.

5. Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi có những phương pháp như Phương pháp luận , Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm,Phương pháp quan sát, Phương pháp tham vấn chuyên gia.

6. Những đóng góp mới của luận án

Là một công trình nghiên cứu có tính ứng dụng, qua tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích cách giảng dạy phong cách Chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ, đóng góp thiết thực trong việc bổ sung và nâng cấp giáo trình giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu, đổi mới phương pháp giảng dạy nhạc Chèo, phù hợp nhất với môi trường giảng dạy đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ.

            Luận văn xác định những đặc điểm chủ yếu và những nét đặc trưng trong phong cách diễn tấu các làn điệu Chèo của đàn Bầu,  góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc trong sự nghiệp giảng dạy âm nhạc truyền thống Việt Nam.

7. Bố cục luận án

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia thành 2 chương:

Chương 1: Nhạc Chèo và thực tế giảng dạy nhạc chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ.

Chương 2: Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ.

Chương I: NHẠC CHÈO VÀ THỰC TẾ GIẢNG DẠY NHẠC CHÈO CHO ĐÀN BẦU TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI

1.1 Khái quát về nhạc Chèo

1.1.1 Một số đặc điểm của các làn điệu Chèo cổ

Chèo thuộc loại kịch hát dân tộc, một dạng tổng hợp hát – múa – nhạc – kịch mang tính nguyên hợp với sắc thái độc đáo. Hứng diễn – lối diễn sơ khai của nghệ thuật Chèo, đã tồn tại qua các giai đoạn lịch sử của Chèo, tạo nên phong cách diễn phóng khoáng tự do, làm nẩy lên những sáng tạo bất ngờ đầy lý thú. Cùng một làn điệu, nhưng mỗi nơi, mỗi diễn viên hát lại khác nhau. Cùng một nghệ nhân hát một điệu, nhưng hát lần thứ nhất cũng khác lần thứ hai. Cùng một điệu hát, nếu đem lồng vào hai câu thơ có dấu bằng trắc khác nhau thì cấu thành giai điệu cũng khác nhau. Và dàn nhạc, từng nhạc công cũng chơi ứng tác theo người diễn viên sao cho nhạc và hát được hài hòa đồng điệu. Vì vậy chúng ta không thể đòi hỏi những làn điệu Chèo phải có sự quy định nghiêm ngặt về bài bản như những ca khúc mới do các nhạc sĩ sáng tác.

Đặc điểm của các làn điệu Chèo: Thuộc thể loại ca khúc hoàn chỉnh, tính chất âm nhạc kể chuyện; và cấu trúc của làn điệu Chèo chính là cơ sở để các nhà nghiên cứu hệ thống các làn điệu Chèo.

   1.1.2. Vai trò của đàn Bầu trong âm nhạc Chèo

Do cấu trúc âm thanh rất giống giọng người, mang chất đối thoại, nỉ non, sâu lắng, đôi khi nức nở, thảm sầu, sau 1954, đàn Bầu điện ra đời với hệ thống khuếch đại âm thanh đã giúp cây đàn càng thuận lợi hơn trong việc dẫn dắt, bắt hơi trong lời hát, hay vang vọng, ngân nga...trong âm nhạc Chèo. Đây có thể coi là thời kỳ phát triển rực rỡ của đàn Bầu trong dàn nhạc Chèo, thôi thúc các nhạc sĩ, nghệ sĩ khai thác triệt để tính năng, màu sắc âm nhạc của đàn Bầu trong dàn nhạc.

Đàn Bầu đặc biệt được sử dụng trong các làn điệu biểu hiện nội tâm sâu, có vị trí quan trọng trong vở diễn. Đó là những đoạn thể hiện cao trào tình cảm của nhân vật trong vở diễn, giai điệu âm nhạc chứa đựng nhiều yếu tố bi thảm, dằn vặt, khóc than, tính kịch biểu hiện đến cao độ, tạo cảm xúc mạnh đối với cả người diễn và khán giả như các điệu vãn theo, vãn cầm, làn thảm, trần tình, ba than, lâm khốc, cũng có khi ở một số loại không nhịp như: Rỉ vong, Sử dầu, hay dạo Tò vò.... Do đó, đàn Bầu càng quan trọng và trở thành nhạc cụ chủ chốt nhằm thể hiện những suy tư thầm kín, những uẩn khúc bi thương hay những tình huống lắng đọng nhất đó..

                        1.2.3. Đặc trưng kỹ thuật diễn tấu các làn điệu Chèo trên đàn Bầu

Các kỹ thuật diễn tấu Chèo trên đàn Bầu rất đa dạng, nhiều bài bản còn rất phức tạp, buộc người chơi đàn phải nắm chắc một cách bài bản các kỹ thuật diễn tấu để có thể ứng dụng linh hoạt vào các làn điệu Chèo.

Một số ngón kỹ thuật của âm nhạc Chèo:

            - Luyến: là kỹ thuật âm mượn trên đàn Bầu. Từ âm đầu tiên được gẩy bằng que đàn, các nốt sau không cần gẩy mà dùng tay trái uốn cần lên hoặc xuống tới cao độ cần thiết. Tất cả các loại bài bản của đàn Bầu đều phải sử dụng kỹ thuật này, tùy vào yêu cầu của bài và khả năng của người chơi sẽ tạo ra những âm thanh mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng.

Ví dụ 1:           Ký hiệu

 

 
 
 

 

 

 

- Rung: người chơi khi gẩy bằng tay phải, sau đó dùng lực nhẹ của tay trái tác động lên xuống liên tục sẽ tạo ra âm thanh giống như làn sóng. Sự lay động ấy  tạo cảm giác mềm mại, có sức truyền cảm hơn, diễn đạt đầy đủ các trạng thái tình cảm nội dung của các làn điệu. Tùy theo yêu cầu, tính chất của bài bản mà có nhiều loại rung khác nhau: rung nhanh, chậm, nhấn rung...

Ví dụ 2:           Ký hiệu

Nhấn rung: từ nốt dây buông, tay trái nhấn cần đàn lên hoặc nhấn cần đàn xuống tới cao độ cần thiết, vừa giữ cao độ đồng thời vừa lay nhẹ cần đàn tạo ra âm thanh rung tại cao độ đã nhấn tới. Kỹ thuật diễn tấu này đem lại sự mềm mại và sâu lắng cho âm thanh

Ví dụ 3:           Ký hiệu

                         

Kỹ thuật nhấn rung có trường hợp sau khi kết hợp đồng thời nhấn và rung cần đàn thì buông nhẹ cần đàn để trả về cao độ cũ mà không cần gẩy nốt buông đó.

Ví dụ 3:           Ký hiệu

- Tô điểm: là nốt đứng trước nốt chính, nó được gảy lên trước rồi luyến nhanh gọn về nốt chính, làm cho người nghe cảm giác như một nốt nhạc duy nhất vang lên.

            Ví dụ 4:           Ký hiệu

 

 
 
 

 

 

 

- Vỗ: Người chơi đàn dùng ngón cái vỗ dứt khoát, nhanh, nhẹ vào cần đàn. Kỹ thuật này thường được sử dụng ở các nốt dây buông bậc I và bậc V

Ví dụ 5:           Ký hiệu                                                                        Cách thể hiện

- Láy: sau khi tay phải gẩy, người chơi dùng ngón cái và ngón trỏ của tay trái làm dây căng lên và chùng xuống quãng 2 rồi trả về cao độ ban đầu với tốc độ nhanh, dứt khoát. Thường được sử dụng vào phách sau của âm chính. Kỹ thuật diễn tấu này giống như nốt tô điểm nhưng âm láy nằm sau âm chính.

Ví dụ 6:           Ký hiệu                                                                        Cách thể hiện

- Giật: là kỹ thuật dùng ngón cái và ngón trỏ miết vào cần đàn làm dây đàn căng lên hoặc chùng xuống với tốc độ nhanh đến cao độ cần thiết thì chặn dây lại. Kỹ thuật này thường dùng trong các làn điệu thể hiện sự đau xót, uất ức.

 

 

Ví dụ 7:           Ký hiệu                                    Cách thể hiện

- Vuốt: là kỹ thuật dùng ngón cái và ngón trỏ nhấn cần đàn làm căng dây đàn lên hoặc chùng dây xuống, ngay sau đó miết ngón cái hoặc ngón trỏ vào cần đàn đến âm dừng cuối cùng theo quy định, sao cho những nốt trong khoảng cách trượt qua từ âm đầu đến âm cuối đều được vang lên.

Ví dụ 8:           Ký hiệu

Trong diễn tấu âm nhạc Chèo, các kỹ thuật cơ bản trên thường được phối hợp với nhau theo từng làn điệu, từng tâm trạng mà làn điệu thể hiện, hoặc theo thói quen của người chơi đàn (ví dụ: tô điểm kết hợp rung, miết rồi rung hoặc tô điểm...) tạo nên phong cách Chèo muôn màu muôn vẻ.

1.2. Thực trạng giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ

Trường ĐHVHNTQĐ (trước đây là trường nghệ thuật Quân đội) là trường âm nhạc với mô hình đào tạo đa cấp, đa ngành và liên thông trong đào tạo. Trong công tác giảng dạy, những khoa nghệ thuật như: khoa Kiến thức nghệ thuật cơ bản, khoa Âm nhạc, khoa Nghệ thuật dân tộc và Miền núi, khoa Thanh nhạc, khoa Sân khấu Điện ảnh, Viết văn...ngày càng được nâng cấp về chương trình, giáo trình, biên soạn giáo án các chuyên ngành, các môn học, nhằm đảm bảo tính cơ bản, chuyên sâu.

            1.2.1. Chương trình, giáo trình giảng dạy đàn Bầu

            * Chương trình giảng dạy

            a/ Lớp chuyên ngành đàn Bầu:

            Trong 60 năm qua, kể từ khi thành lập trường Nghệ thuật Quân đội nay là ĐHVHNTQĐ thì chương trình giảng dạy luôn được điều chỉnh cho phù hợp với mục đích đào tạo và yêu cầu thực tiễn của xã hội. Thời lượng đào tạo cho mỗi học sinh, sinh viên khoa Nghệ thuật Dân tộc và Miền núi được chia làm 2 bậc, kéo dài 8 năm:

            - Trung cấp 4 năm: phong cách Chèo được đưa vào giảng dạy năm 2

            - Đại học 4 năm: phong cách Chèo được đưa vào giảng dạy năm 1

            Trong 4 năm ĐH, các em được học lại 3 phong cách nhạc cổ giống như của bậc TC, nhưng với những bài bản có hình thức lớn hơn và học cách xử lý chuyên sâu hơn từ kỹ thuật đến biểu cảm.

            Tại ĐHVHNTQĐ, học sinh chỉ có 1 năm để tập trung học riêng về các kỹ thuật cơ bản của đàn Bầu và 2 năm tiếp theo để hoàn thiện toàn bộ kỹ thuật của đàn Bầu song song với các phong cách nhạc cổ là Chèo và Huế. Chưa kể, tuyển sinh bắt đầu từ độ tuổi 14 – 17 tuổi là một thách thức rất lớn đối với trường ĐHVHNTQĐ, bởi ở tuổi này, xương học sinh hầu như đã cứng cáp, mất rất nhiều thời gian mà cũng rất khó để uốn nắn cho học sinh những kỹ thuật cơ bản cần sự mềm mại. Vì vậy, người giảng viên cần tìm ra phương pháp giảng dạy, phương pháp truyền đạt phù hợp với học viên nhất, kết hợp với giáo trình giảng dạy phù hợp với chương trình giảng dạy của trường ĐHVHNTQĐ. Bởi vậy, việc sử dụng y nguyên giáo trình của HVÂNQGVN phục vụ cho việc giảng dạy cũng chưa thực sự phù hợp, đòi hỏi phải có một giáo trình khác vừa cơ bản, vừa phong phú và đa dạng về kỹ thuật cũng như bài bản, phù hợp với mọi trình độ của học sinh trong môi trường giảng dạy của trường ĐHVHNTQĐ.

            Các làn điệu Chèo được dùng cho đàn Bầu ở bậc TC:

            + Lới lơ, Cách cú, Hề mồi, Xẩm xoan, Dương xuân, Gà rừng. Đây là các làn điệu ngắn, giai điệu hay và dễ thuộc, là bước đầu đưa học viên làm quen với âm nhạc Chèo.

            + Đào liễu (2 trổ), Đường trường duyên phận (ngón kỹ thuật đơn giản), Nhịp đuổi (2 trổ), Luyện năm cung (2 trổ). Đây là những làn điệu đã được rút ngắn lại chỉ học 2 trổ, hoặc các ngón kỹ thuật được soạn đơn giản, phù hợp với trình độ TC.

            - Các làn điệu được dùng cho đàn Bầu ở bậc ĐH:

            + Đào liễu, Luyện năm cung, Chinh phụ, Tình thư hạ vị, Nhịp đuổi, Tò vò, Làn thảm, Sa lệch chênh. Đây là những làn điệu diễn tấu với tốc độ hơi chậm hoặc chậm, một số bài bản so với trình độ TC đã được soạn với kỹ thuật khó hơn, đầy đủ hơn (như làn điệu Đào liễu, Luyện năm cung, Nhịp đuổi được thêm vỉa, thêm trổ...), đòi hỏi các em phải xử lý nắn nót và điêu luyện chứ không chỉ dừng lại ở việc thuộc bài như ở trình độ TC.

            Mặc dù các phong cách truyền thống được giảng dạy nhằm giới thiệu chứ không chuyên sâu, nhưng với số lượng bài trong chương trình học như vậy vẫn còn nghèo nàn, giảng viên không có nhiều sự lựa chọn để đưa ra những làn điệu phù hợp với sở trường của HSSV, ngoài ra sự lặp lại các bài bản trong 2 bậc TC và ĐH dễ gây nhàm chán cho cả người học lẫn người dạy.

            b/ Học hát Chèo:

            Tại trường ĐHVHNTQĐ, hát Chèo chưa trở thành 1 môn học độc lập mà chỉ đơn thuần là một số tiết đầu học kỳ nằm trong số các tiết hòa tấu, bổ trợ cho bộ môn hòa tấu và không nằm trong chương trình thi học kỳ. Tùy vào sự sắp xếp của khoa mà mỗi năm học Chèo các em sẽ được học hát Chèo 8 tiết/ 2 buổi/ 1 học kỳ. Theo chúng tôi, việc phân bổ như vậy chưa hợp lý, bởi việc học hát Chèo nếu được duy trì song song với việc học hòa tấu và nhạc cụ chuyên ngành sẽ đem lại nhiều thuận lợi hơn cho quá trình luyện tập và diễn tấu trên nhạc cụ. Điều này tạo cảm hứng, giúp sinh viên dễ thuộc, dễ tiếp thu hơn, cũng như hiểu được các kỹ thuật tinh tế của người hát để vận dụng vào nhạc cụ.

            c/ Học hòa tấu:

            Tại trường ĐHVHNTQĐ, bộ môn hòa tấu Chèo rất được chú trọng nên được sắp xếp theo khung chương trình đào tạo dành cho cả bậc TC và ĐH song song với chương trình học chuyên ngành. Thời gian cho việc học hòa tấu Chèo là 60 tiết/1 kỳ, 4 tiết/tuần. Toàn bộ quá trình học hòa tấu là 3 năm TC (tính từ năm thứ 2 TC mới bắt đầu học hòa tấu) và cả 4 năm ĐH. Sinh viên sẽ tốt nghiệp hòa tấu tổng hợp cả 3 phong cách vào học kỳ thứ 8 (học kỳ 2 của năm thứ 4) của bậc TC và bậc ĐH: 6 bài 3 phong cách Chèo – Huế – Tài tử Cải lương (mỗi phong cách 2 bài).

            Hòa tấu Chèo được trường ĐHVHNTQĐ sắp xếp nhiều thời gian nhất: 360 tiết/6 học kỳ và là chương trình học riêng biệt chứ không chịu chi phối của chương trình chuyên môn. Chúng tôi nhận thấy như vậy chưa thực sự hợp lý, bởi khi học hòa tấu không bám sát theo  chuyên ngành, thì môn học này hầu như không đem lại nhiều thuận lợi nữa.

            Chúng tôi nhận thấy chương trình giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu của trường ĐHVHNTQĐ phù hợp với mục đích đào tạo của trường. Nhưng thực tế vẫn còn nhiều sự thiếu hợp lý với một vài yếu tố khách quan nên việc đào tạo gặp rất nhiều khó khăn, chất lượng giảng dạy chưa cao. Trong chương trình học, phong cách Chèo rất được khoa Dân tộc và Miền núi chú trọng, thời lượng học nhiều hơn hẳn so với các phong cách khác, nhưng học sinh chưa được tiếp xúc nhiều với hát Chèo, bộ môn hòa tấu Chèo do nhiều yếu tố khách quan nên chưa được sắp xếp theo đúng chương trình học, chưa hỗ trợ được cho bộ môn chuyên ngành, tuyển sinh bậc TC ở độ tuổi khá lớn (14-17) nên ngay từ năm đầu, việc uốn nắn các kỹ thuật cơ bản của đàn Bầu không thuận lợi như các em nhỏ tuổi tay vẫn còn mềm mại, nên sang năm thứ 2 bậc TC, việc tiếp thu và xử lý các kỹ thuật diễn tấu Chèo của học sinh càng khó khăn hơn.

            * Về giáo trình giảng dạy

            Cho đến nay, trường ĐHVHNTQĐ vẫn chưa có một giáo trình giảng dạy Chèo riêng biệt hay một tuyển tập âm nhạc Chèo chính thức dành cho đàn Bầu. Một phần các làn điệu Chèo phục vụ cho việc giảng dạy hiện nay đều là bản viết tay, được tích lũy lại trong quá trình học tập trước đó của giảng viên, đồng thời được truyền từ người này sang người khác nên không tránh khỏi sự sai lệch và không được chuyên sâu.

            Hiện nay, trường ĐHVHNTQĐ vẫn sử dụng công trình “Sách học đàn Bầu” (Ths - NSND Thanh Tâm và giảng viên Trần Quốc Lộc) của khoa Nhạc cụ truyền thống tại HVÂNQGVN làm tư liệu giảng dạy bộ môn chuyên ngành, bao gồm cả phong cách Chèo. Đây có thể coi là giáo trình chính phục vụ cho việc giảng dạy đàn Bầu từ bậc TC đến ĐH tại trường ĐHVHNTQĐ. Công trình này biên soạn các bài gam, một số bài tập kỹ thuật cơ bản, dân ca, 3 phong cách âm nhạc truyền thống là Chèo, Huế, Tài tử – Cải lương và tác phẩm mới. Tuy nhiên, giáo trình mới chỉ dừng lại ở việc các bài bản, phong cách được sắp xếp hợp lý từ dễ đến khó, phù hợp với mục đích đào tạo mà trường đề ra, do mang tính chất tổng hợp nên số lượng bài bản của từng loại hình âm nhạc lại không phong phú. Nói riêng về phong cách Chèo, trong giáo trình chỉ đưa ra 10 làn điệu, khi đừa vào phục vụ giảng dạy trên lớp chuyên ngành thì giảng viên vẫn phải chỉnh sửa thêm để bài bản hay hơn, hoàn thiện hơn, bám sát lời ca hơn.

            Song song với “Sách học đàn Bầu”, khoa Nghệ thuật Dân tộc và Miền núi cũng sử dụng “Hòa tấu Chèo” phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn hòa tấu Chèo, giáo trình đưa ra 17 làn điệu.

            Trường ĐHVHNTQĐ mới chỉ có chương trình chi tiết, còn giáo trình giảng dạy chuyên ngành đàn Bầu chính thức thì chưa có, nên luôn luôn phải sử dụng, cóp nhặt các bài bản, làn điệu Chèo từ giáo trình của HVÂNQGVN và một số tài liệu chép tay cá nhân của giảng viên chuyên ngành. Tuy nhiên, trên thực tế giảng dạy thì 2 cơ sở đào tạo không hoàn toàn giống nhau, HVÂNQGVN cũng thường xuyên nâng cao chất lượng giảng dạy từ  việc nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn để tăng thêm số lượng bài bản, sửa đổi các bài bản sai sót, bổ sung thêm giáo trình, đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp với HSSV tại Học viện. Do vậy chúng tôi thấy chưa hợp lý nếu chỉ sử dụng giáo trình của HVÂNQGVN áp dụng giảng dạy Chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ.

Việc thiếu bài bản trong giáo trình giảng dạy, bài bản trong giáo trình chuyên ngành không thống nhất, còn chưa chuẩn xác...đã ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo Chèo cho đàn Bầu ở cả hai bậc TC và ĐH. Do vậy, việc xây dựng một giáo trình chính thức vừa cơ bản, vừa phong phú, đa dạng về kỹ thuật cũng như làn điệu là công việc vô cùng cấp thiết.

            1.2.3. Phương pháp giảng dạy

            *Trên thực tế  

            a/ Dạy chuyên ngành:

            Tại trường ĐHVHNTQĐ, việc dạy học diễn ra giữa 1 thầy – 1 trò theo tuần tự: Giao bài – Vỡ bài  – Trả bài. Giảng viên sẽ giao bài cho sinh viên và hướng dẫn sinh viên vỡ bài ngay trên lớp, sinh viên qua thời gian tập luyện tại nhà sẽ lên lớp trả bài, giảng viên nghe và chỉnh sửa những thiếu sót để sinh viên hoàn thiện bài bản. Khác với phương pháp dạy học cổ truyền theo ký hiệu chữ nhạc “Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, ...”, cách ký âm Tây phương, bằng những nốt “Đồ, Rê, Mi, ...” được áp dụng. Đây cũng là phương pháp giảng dạy phổ biến tại nhiều cơ sở đào tạo âm nhạc khác trong phạm vi cả nước. Dưới sự hướng dẫn và hỗ trợ của giảng viên, sinh viên dễ dàng tiếp thu bài bản phổ. Nhưng do giáo trình giảng dạy chưa được phong phú, đa dạng nên dạy bài nào sinh viên biết bài đấy mà không biết được cách ứng tấu dựa trên lòng bản và kỹ thuật xử lý nhiều khi cũng chưa thực sự tốt.

            b/ Dạy hòa tấu:

            HSSV được giao bài – vỡ bài ngay trên lớp, giảng viên sẽ hướng dẫn chung cho sinh viên về tốc độ, sắc thái của bài bản (rung, nhấn ra sao, vào những nốt nào v.v...), bám sát quá trình vỡ bài của sinh viên để kịp thời điều chỉnh. Song song đó, giảng viên hỗ trợ thêm về phần bài bản (sai sót, thừa – thiếu nhịp..) sao cho bài bản của các nhạc cụ đều khớp với nhau. Khi hoàn thành mỗi làn điệu, sinh viên sẽ được tập thêm tone khác của làn điệu đó và được hướng dẫn đâu là tone cho giọng nam, đâu là tone cho giọng nữ...

            Tuy nhiên như chúng tôi đã đề cập trong chương trình giảng dạy, số lượng bài bản sinh viên học được rất ít ỏi (17 làn điệu/360 tiết/6 kỳ), bài bản được biên soạn cũng chưa bám sát với lời ca, còn sơ sài nên chưa làm nổi bật được cái hay của các làn điệu, một số làn điệu có trong chương trình giảng dạy hòa tấu cũng không có trong giáo trình hòa tấu (Cấm giá, Bình thảo), phải sử dụng bài bản chép tay của giảng viên hòa tấu nên chưa thực sự khách quan, các kỹ thuật diễn tấu đàn Bầu (trừ kỹ thuật luyến) thì đều không được ký hiệu trên bản nhạc, đặc biệt đối với học sinh TC mới tiếp xúc với Chèo thì chỉ đủ trình độ đánh theo y hệt bài bản trong giáo trình, chứ học sinh chưa hiểu, chưa biết cách tự đưa thêm vào bài bản các kỹ thuật diễn tấu rung, láy, vỗ, miết... để đánh được ra đúng bài, lại thêm không được nghe nhiều, tiếp xúc nhiều với hát Chèo, rất khó để học sinh có thể tiếp thu và hoàn thiện mỗi bài bản, gây khó khăn trong việc dạy và học.

Tiểu kết chương I

            Đối với Chèo, đàn Bầu là một trong những nhạc cụ chủ chốt của dàn nhạc Chèo. Từ các kỹ năng diễn tấu cơ bản như : nhấn, luyến, rung, vỗ, miết,...người nghệ sĩ chơi đàn kết hợp các kỹ thuật cơ bản đó một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt và sáng tạo theo cá tính của mình, đồng thời khéo léo lợi dụng tính năng nhạc cụ độc đáo của đàn Bầu, dần dần mở rộng khả năng diễn tấu cũng như hình thức diễn tấu của cây đàn. Đến nay, đàn Bầu vừa có thể độc tấu các làn điệu Chèo như một giọng hát, vừa có thể là một thành phần của dàn nhạc, đảm nhiệm được chức năng hòa tấu cũng như đệm cho nghệ sĩ hát trên sân khấu Chèo.

            Nhìn chung, muốn diễn tấu được tốt âm nhạc truyền thống Việt Nam, trước tiên phải hiểu được bối cảnh và phong cách của dân ca, nhạc cổ; tiếp nữa cần phải hiểu được lời của nó; nắm bắt được âm luật của giai điệu; lại phải học thuộc cách diễn xướng dân ca và nhạc cổ đó; đồng thời chú ý đến các chi tiết nhỏ trong diễn xướng. Chỉ có như vậy mới có thể diễn giải được tốt tác phẩm trên cơ sở nguyên tắc trung thực với nội dung âm nhạc.

            Tiếp nối truyền thống, đàn Bầu đã được đưa vào giảng dạy tại các cơ sở đào tạo âm nhạc trên cả nước, với mục tiêu đào tạo thế hệ HSSV có kiến thức toàn diện về âm nhạc truyền thống, đàn Bầu được giảng dạy tại trường ĐHVHNTQĐ với đầy đủ kỹ năng diễn tấu, hình thức diễn tấu phổ biến, đối với phong cách Chèo, HSSV được học cả độc tấu và hòa tấu các làn điệu Chèo cổ, nhưng việc giảng dạy nhạc cổ từ khi đưa vào chương trình đào tạo cho đến nay vẫn còn rất nhiều hạn chế, dẫn đến chất lượng đào tạo chưa đem lại kết quả cao. Vấn đề giảng dạy phong cách Chèo cho đàn Bầu tại trường ĐHVHNTQĐ sẽ được chúng tôi đề cập tại chương 2

Chương II: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY NHẠC CHÈO CHO ĐÀN BẦU TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI

            2.1 Giảng dạy một số bài bản Chèo cho đàn Bầu

            2.1.1 Giảng dạy một số bài bản Chèo cho đàn Bầu với vai trò độc tấu

            Hiện nay, tại trường ĐHVHNTQĐ nói riêng và các cơ sở giảng dạy âm nhạc nói chung đều chú trọng vào việc giảng dạy độc tấu cho HSSV. Nhạc cụ hầu hết đều đảm nhận nhiệm vụ diễn tấu những làn điệu Chèo thay thế giọng hát. Do cấu trúc âm thanh giống như tiếng người, và tính năng đặc biệt, độc tấu các làn điệu Chèo được xem là thế mạnh của đàn Bầu.

            Trường ĐHVHNTQĐ đã hệ thống các làn điệu theo tính chất thể hiện giống nhau để sắp xếp bài bản một cách phong phú và phù hợp với trình độ của học sinh, cụ thể là:

1. Các làn điệu vui với tính chất âm nhạc vui nhộn, lạc quan, trong sáng, hoặc cười chê cười giễu.

2. Các làn điệu trữ tình với tính chất âm nhạc thường gợi cảm, trữ tình hoặc ngợi ca.

3. Các làn điệu biểu hiện nội tâm sâu với tính chất âm nhạc có kịch tính, cao trào, sâu lắng, xót xa.

4. Các loại vỉa, nói, ngâm, kể, đọc của Chèo.

            a/ Các làn điệu vui: Lới lơ, Cách cú, Hề mồi, Dương xuân...với tốc độ nhanh, vui vẻ, hoạt bát, người chơi cần đánh chuẩn âm ở tất cả các bậc, rung nhanh rung nhanh bậc II và bậc VI, các kỹ thuật luyến, láy, vỗ, miết nhanh thể hiện rộn ràng, tươi sáng.

            b/ Các làn điệu trữ tình: Đào liễu, Luyện năm cung, Nhịp đuổi, Đường trường phải chiều...cần diễn tấu ở tốc độ nhanh vừa, các kỹ thuật như luyến láy, vỗ, vuốt đều phải nhẹ nhàng, mềm mại, rung nhẹ và êm ở bậc IV, bậc VII.

            c/ Các làn điệu buồn: khá quan trọng trong vở diễn bởi tính kịch biểu hiện đến cao độ, thường sử dụng trong những đoạn cao trào tình cảm của nhân vật, gây xúc động mạnh tới người xem. Các làn điệu buồn đều thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp, chứa đựng yếu tố sầu thảm, dằn vặt, trách móc, khóc than…đặc biệt nội tâm phải xúc động chân thật, rất phù hợp với đàn Bầu, qua các bài bản: Tò vò, Làn thảm, Vãn ba than. Diễn tấu các làn điệu buồn, người chơi cần thể hiện với tốc độ chậm, tay phải gẩy nắn nót từng nốt, tay trái rung chậm ở bậc IV và bậc VII hoặc bậc I và bậc IV, các ngón nhấn, vỗ, láy chậm và mềm mại.

            d/ Các loại vỉa, nói, ngâm, kể, đọc: là phần dẫn dắt chuẩn bị vào các làn điệu hát để không gây nên cảm giác đột ngột, mang nội dung nhất định trong vở diễn và phong cách riêng của Chèo. Bởi vậy, các làn điệu càng phong phú thì các cách nói, cách ngâm thơ, cách vỉa...của Chèo càng phát triển theo: Vỉa Tò vò, Vỉa Quá giang, Vỉa Vãn theo, Ngâm sổng, Nói lửng, Nói lệch, Nói sử.

            Độc tấu các làn điệu Chèo giúp người chơi nắm chắc lòng bản và tính chất của từng làn điệu, hiểu hơn về phong cách Chèo, giúp người chơi chủ động diễn tấu tốt hơn trong vai trò hòa tấu.

            2.1.2 Giảng dạy một số bài bản Chèo cho đàn Bầu với vai trò hòa tấu

            Việc độc tấu tốt các làn điệu Chèo góp phần rất lớn trong việc học hòa tấu Chèo của HSSV, bởi khi đã thuộc lòng bản thì trong quá trình hòa đàn, sinh viên có thể làm chủ cây đàn của mình, để vừa chơi vừa lắng nghe cách diễn tấu của các nhạc cụ khác. Sau đó, qua sự hướng dẫn của giảng viên hòa tấu, sinh viên có thể nắm bắt được một số câu hay của các cây đàn khác, hiểu được khi nào thì bạn đàn nổi lên, để ứng biến sao cho phù hợp với bạn hòa tấu, bằng cách lựa chọn ngón đàn để tòng theo giúp nổi bật các cây đàn khác trong nhóm. Mặt khác, làm nổi bật khả năng diễn tấu của riêng mình qua những đoạn xuyên tâm, lưu không, đảo phách ...

            2.2 Đổi mới phương pháp giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu

            2.2.1 Các phương pháp giảng dạy hiện nay

            * Phương pháp cổ truyền

            Phương pháp dạy cổ truyền của Nghệ nhân là người thầy đàn trước, người trò nghe và đàn theo, người thầy sẽ uốn nắn từng nốt từng câu cho trò đến hết bài. Phương pháp này đòi hỏi một người nghệ nhân giỏi và người học có niềm đam mê, tiếp thu nhanh, kiên trì cao, trí nhớ tốt. Mỗi lần chơi đàn, các nghệ nhân thường chơi không giống nhau, kể cả khi đánh mẫu để dạy cho người trò, nên muốn học tốt, người học nghề phải được tiếp xúc nhiều, nghe thầy giáo chơi nhiều thì mới hiểu được cách diễn tấu, phong cách của người thầy, từ đó áp dụng và hình thành lối chơi cho bản thân, qua thời gian tích lũy dần dần có khả năng ứng tác. Với phương pháp truyền khẩu này, người học nắm vững bài bản rất chắc, nhớ rất lâu, ứng tác điêu luyện, dễ dàng đệm cho hát. Tuy nhiên thời gian học mỗi làn điệu đều mất rất nhiều thời gian, dẫn đến số lượng bài bản học được trong cả quá trình học không nhiều, bó hẹp trong một thể loại âm nhạc và các ngón đàn hay thường không được lưu lại... cùng một số nhược điểm phát sinh khác. Phương pháp này chỉ có thể sử dụng cho việc giảng dạy nhạc cổ chứ không thể sử dụng cho tác phẩm mới, nên rất ít trường đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp giảng dạy bằng phương pháp truyền khẩu.

* Phương pháp sử dụng 5 dòng kẻ và hệ thống âm nhạc phương Tây

            Phương pháp này giúp cho các em có khả năng thị tấu bài tốt hơn, các bài bản trở nên dễ nhớ, dễ thuộc, số lượng bài bản được học cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, việc đánh theo bản nhạc được chuyển soạn sẵn làm các em bị phụ thuộc vào sách vở, bài bản rập khuôn nên các em không có sự sáng tạo, không biết ứng tác dựa trên lòng bản, khả năng đệm hát cũng rất hạn chế. Đặc biệt là âm nhạc cổ truyền Việt Nam không dùng hệ thống bình quân như trong nhạc phương Tây hay nhạc mới vì nó còn có âm già, âm non nên phải học theo kiểu truyền khẩu.

            Hiện nay tại các cơ sở đào tạo âm nhạc, phương pháp giảng dạy đàn Bầu đã hình thành những phương pháp như sau:

            - Phương pháp truyền khẩu, truyền ngón vẫn là phương pháp quan trọng nhất trong việc giảng dạy đàn Bầu, đặc biệt là với phong cách nhạc cổ.

            - Phương pháp sử dụng 5 dòng kẻ để ký âm cơ bản như chúng tôi đã đề cập

            - Phương pháp tham vấn chuyên gia – mời các nghệ nhân, nghệ sĩ kỳ cựu trong các đoàn nghệ thuật để kết hợp giảng dạy trong các lớp học hát dân ca, nhạc cổ, hòa tấu, nhằm bổ trợ kiến thức về phong cách nhạc cổ cho HSSV.

            Truyền khẩu, truyền ngón và sử dụng 5 dòng kẻ không còn mới lạ, các cơ sở đào tạo âm nhạc hầu như đã kết hợp hai phương pháp này để giảng dạy chuyên ngành đàn Bầu, phương pháp kết hợp với nghệ nhân, nghệ sĩ kỳ cựu gần đây mới được trường ĐHVHNTQĐ đưa vào cho hầu hết các phong cách nhạc cổ, nhưng chỉ có 3 phương pháp trên thì chưa thể đem lại kết quả cao.

            2.2.2 Nâng cao phương pháp giảng dạy nhạc Chèo cho đàn Bầu tại ĐHVHNTQĐ.

* Nâng cao phương pháp giảng dạy một thầy – một trò

Hiện tại trên lớp, người dạy vẫn bị dập khuôn chương trình, giáo trình giảng dạy như thế nào thì trên lớp tiến hành nguyên si như vậy theo trình tự giao bài – vỡ bài – trả bài. Khi mà giáo trình giảng dạy phong cách Chèo đã được bổ sung hoàn chỉnh và phong phú hơn, thay vì chỉ giao bài vở và giảng dạy theo đúng chương trình, người dạy cần chú ý đến tâm lý của HSSV, nắm rõ sở trường, sở thích của người trò để giao bài mà sinh viên có thể phát huy sở trường và làm theo sở thích của mình.

            Phương pháp giảng dạy một thầy – một trò có thể kết hợp làm việc theo nhóm, vẫn là phương pháp dạy từng cá nhân, nhưng giảng viên có thể kết hợp giờ dạy trên lớp của nhiều HSSV đều đang học phong cách Chèo, sinh viên trình độ TC được ngồi nghe sinh viên trình độ ĐH trả bài, hoặc cùng nghe tài liệu do các sinh viên trong nhóm học Chèo đó sưu tầm được để thảo luận, nếu được, có thể thị phạm trước để dẫn dắt cho sinh viên cùng nhau diễn tấu các câu hay trong tài liệu đó, giảng viên quan sát, gợi mở đề tài và góp ý, động viên, khen ngợi nếu cần...

             Tóm lại, đối với các HSSV còn đang học cơ bản, giảng viên phải hướng dẫn tỉ mỉ, giải thích và thị phạm nhiều cho sinh viên; dần dần, giảng viên cần yêu cầu sinh viên mức độ cao hơn, chủ động hơn trong các giờ học trên lớp.

*Phương pháp giảng dạy phong cách Chèo qua học hát Chèo

            Khi diễn tấu các làn điệu Chèo, sinh viên thường bị lạc đường, đánh lòng vòng và không biết đã chơi đến câu nào, đoạn nào. Bởi nhạc cổ thường hay có những đoạn tương đối giống nhau, chỉ khác nhau một vài nốt đã dẫn đến sự nhầm lẫn mà không tìm được đường nét giai điệu để về kết bài. Việc học hát một làn điệu Chèo trước khi diễn tấu làn điệu đó trên đàn sẽ giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc thể hiện các làn điệu đó trên nhạc cụ mình chơi, hiểu được là phải sử dụng kỹ thuật diễn tấu (rung, vỗ, láy, vuốt...) vào nốt nào? nhanh chậm ra sao? như thế nào cho hợp lý; khi đã thuộc lời hát thì chơi trên đàn chỉ cần nhớ lời hát thì bài bản sẽ đánh trôi chảy, rất dễ thuộc, hiểu được đâu là lưu không, đâu là trổ 1, đâu là trổ 2, 3.., tránh được sự nhầm lẫn giữa các câu nhạc, khi diễn tấu sẽ không còn bị lạc đường, đánh lòng vòng. có thể nhận thấy được những nét chung và riêng của đường nét giai điệu trong diễn tấu nhạc cụ và trong phần hát, hiểu được khái niệm về trổ, lưu không, vỉa...v.v... trong Chèo. Như chúng tôi đã ví dụ ở mục 2.1.2, đặc biệt các phần Ngâm, Vỉa, nếu không được nghe, không được tiếp xúc với các phần Ngâm, Vỉa thì sinh viên sẽ không thể chơi tốt được trên đàn Bầu. Bởi bài bản làn điệu thì còn có nhịp phách, tiết tấu rõ ràng, còn Ngâm, Vỉa chỉ là tự do, nếu đưa bản nhạc thì sinh viên rất khó định hình được phải xử lý bài bản như thế nào, việc nghe và hát nhiều đến thuộc giai điệu thì khi vào đàn sẽ diễn tấu dễ dàng hơn, nhanh thuộc hơn, tránh được tình trạng học xong thi xong không đụng đến kiến thức lại quên bài vở, giống như các nghệ nhân, nghệ sĩ chơi đàn đã thuộc lòng các lời ca của làn điệu, chơi đàn sẽ sâu sắc và rất khó để quên.

            Tuy trường ĐHVHNTQĐ đã đưa hát Chèo vào bổ trợ cho chương trình giảng dạy phong cách Chèo, cụ thể là bộ môn hòa tấu nhưng chúng tôi nhận thấy thời lượng giờ học, số lượng bài bản quá ít, 4 tiết hát Chèo/ học kỳ mới chỉ mang tính chất như tiết sinh hoạt ngoại khóa. Cần đưa bộ môn hát Chèo vào môn học chính với các làn điệu bám sát với chương trình giảng dạy phong cách Chèo cho chuyên ngành và hòa tấu, để sinh viên được học định kỳ hàng tuần: 1 làn điệu/2 tiết học/1 tuần, tổ chức thi cuối học kỳ với số lượng 2 bài tự chọn/học sinh. Số lượng làn điệu sinh viên được học sẽ nhiều hơn, nâng cao chất lượng dạy và học chuyên ngành.

            2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác

            a/ Bổ sung thêm một số làn điệu Chèo vào chương trình học

            Hiện tại, chuyên ngành học cá nhân trong giáo trình các em đang có 10 làn điệu. Và bộ môn Hòa tấu sinh viên được học 17 làn điệu. Dựa trên yêu cầu và khả năng của từng cấp học, chúng tôi xin đề xuất điều chỉnh và bổ sung thêm một số làn điệu Chèo mẫu sau:

            - Bậc Trung cấp: (10 làn điệu) Xẩm xoan, Đò đưa, Ngâm Sổng, Gà rừng, Sắp cổ phong, Sắp qua cầu, Cấm giá, Bình thảo, Chức cẩm hồi văn, Tình thư hạ vị.

            - Bậc Đại học: (15 làn điệu) Chinh phụ, Du xuân, Dậm chân, Thiếp trả cho chàng, Quá giang, Vãn ba than, Vãn canh, Trần tình, Tải lương, Tò vò, Hôm 30 Tết, Bà chúa con cua, Quân tử vu dịch, Quá giang, Hát xuôi hát ngược, Làn thảm.

            Các làn điệu như Du xuân (3 trổ), Thiếp trả cho chàng (3 trổ) có thể soạn ở cả chương trình TC và ĐH. Với bậc TC nên soạn đơn giản hơn, không cần nhiều kỹ thuật diễn tấu quá phức tạp, để phù hợp với trình độ của HSSV. Còn với bậc ĐH thì cần soạn bài bản với bố cục đầy đủ, bổ sung cả phần Ngâm, Vỉa của làn điệu đó.

            b/ Hòa tấu âm nhạc Chèo:

            Tuy trường ĐHVHNTQĐ có sách dạy hòa tấu riêng, bài soạn sử dụng cho hòa tấu của từng nhạc cụ, nhưng bài bản lại chưa làm nổi bật được tính năng của đàn Bầu, hssv vẫn thường lấy bài bản chuyên ngành (soạn cho độc tấu) để dùng trong hòa tấu Chèo. Giảng viên phụ trách môn hòa tấu nên chỉnh sửa bài cho sinh viên, kết hợp với giảng viên dạy hát Chèo, ban đầu cho sinh viên biết về tính năng của từng nhạc cụ, sau đó cho sinh viên cùng hòa tấu với nhau, chỉ cho sinh viên thấy câu nào, đoạn nào, cây nhạc nào hay, gợi ý cho sinh viên chơi cây nhạc khác trong câu đó nên đánh như thế nào để làm nổi bật bạn đàn của mình, hướng dẫn sinh viên cách chơi thêm – bớt trong khi hòa đàn sao cho phù hợp với chức năng của mỗi cây đàn, giúp HSSV nâng cao kỹ năng nghe, phân tích và đánh giá.

            c/ Bổ sung giờ học về nội dung các vở Chèo

            Khi thể hiện các làn điệu, nội dung vở Chèo cũng rất quan trọng, sinh viên cũng cần phải biết là làn điệu này được sử dụng trong vở Chèo nào? nhân vật nào thể hiện? tính cách nhân vật ra sao? tình cảnh và tâm trạng của nhân vật thể hiện qua làn điệu như thế nào? Như chúng tôi đã đề cập phần b/ mục 2.3, cần kết hợp thêm các giờ học về nội dung vở Chèo vào trong các buổi hòa tấu, bởi đây là giờ học tập thể. Những buổi học đầu học kỳ, giảng viên dạy hòa tấu có thể cho học sinh tham khảo tư liệu về các trích đoạn Chèo có sử dụng làn điệu trong chương trình học, giới thiệu cho học sinh về nội dung vở Chèo, trích đoạn, làn điệu đó.

            Trong quá trình học, việc hiểu nội dung giúp HSSV diễn tấu làn điệu tốt hơn, hiểu và lột tả đúng tâm trạng, cảm xúc mà làn điệu thể hiện, góp phần giúp cho sinh viên nhớ làn điệu đó lâu hơn, từ giai điệu, đến hoàn cảnh sử dụng làn điệu, bởi tư duy bằng lời thì dễ nhớ và nhớ lâu hơn.

            d/ Tổ chức các buổi biểu diễn báo cáo chuyên đề âm nhạc Chèo

            Khoa Dân tộc và Miền núi tại trường ĐHVHNTQĐ nên tổ chức những buổi báo cáo thành tích học tập sau kỳ thi cuối học kỳ hoặc buổi biểu diễn chuyên đề Chèo cho sinh viên vào giữa học kỳ của những khóa học phong cách Chèo, để buổi biểu diễn không mang nặng tâm lý như thi học kỳ, nên đặt ra tiêu chí rồi để hssv tự chủ động sắp xếp danh mục chương trình, có thể gợi ý, nhiệt tình giúp đỡ sinh viên dàn dựng nếu cần thiết, để chương trình được phong phú, đặc sắc: xen kẽ giữa tiết mục hòa tấu Chèo của cả khóa, tiết mục hòa tấu phân nhóm với các làn điệu Chèo tự chọn, tiết mục độc tấu các tác phẩm mang chất liệu Chèo cho những sinh viên có kết quả thi chuyên ngành cá nhân xuất sắc, dàn dựng trích đoạn Chèo mẫu được học, trình chiếu những tài liệu Chèo nghe nhìn mà sinh viên sưu tầm được... Chương trình biểu diễn sẽ là cơ hội cho sinh viên làm quen với việc đứng trên sân khấu, được giao lưu với nhau, giúp sinh viên mạnh dạn, thêm đam mê và nỗ lực hơn trong học tập. Ngoài ra, có thể kết hợp mời một số nghệ sĩ, nghệ nhân Chèo tham gia giao lưu, trực tiếp được xem những kỹ thuật diễn tấu từ những nghệ sĩ Chèo lão luyện sẽ giúp hssv dễ dàng học hỏi, nắm bắt bài bản hơn.

            e/ Tổ chức các buổi ngoại khóa, giao lưu với sân khấu Chèo

            Việc học tập nghiêm túc trên lớp và luyện tập chăm chỉ thường xuyên tại nhà sẽ dần tạo dựng nên thế giới âm thanh đặc trưng của âm nhạc Chèo trong tiềm thức của sinh viên. Người dạy cần khuyến khích sinh viên mở rộng hơn nữa việc tiếp cận với âm nhạc Chèo, bằng việc tiếp cận với sân khấu Chèo.

            2.4. Thực nghiệm sư phạm

            a/ Trình độ TC:

            3 bước: Giao bài – Vỡ bài – Kiểm tra đánh giá.

            * Học sinh khi được nghe tài liệu nghệ sĩ lão luyện hát làn điệu đó, được học hát làn điệu qua lớp hát Chèo, sẽ nhanh thuộc bài bản trên đàn Bầu hơn, các nốt bị phô là do tay thiếu linh hoạt, các bài tập sẽ luyện tay học sinh được linh hoạt hơn, các nốt sẽ chuẩn xác hơn.

            b/ Trình độ ĐH:

            3 bước: Giao bài – Vỡ bài – Kiểm tra đánh giá.

            * Sinh viên được học hát làn điệu trước khi tiếp xúc với bài bản trên đàn Bầu sẽ tiếp thu nhanh hơn, thuộc bài hơn vì các làn điệu ĐH khá dài. phần Vỉa sinh viên vẫn có thể tập được không cần bản nhạc, chỉ cần thuộc lời phần Vỉa, được nghe tài liệu hát nhiều và diễn tấu theo, không bị lẫn lộn giữa các Trổ, không bị lạc đường, nhầm câu..., diễn tấu tình cảm hơn, có chiều sâu hơn, ra đúng chất Chèo và yêu cầu của làn điệu.

*Tiểu kết chương 2

            Việc bổ sung thêm vốn làn điệu Chèo cổ vào việc xây dựng giáo trình đào tạo chính thống là hết sức cần thiết, góp phần phát huy được những ưu điểm, xử lý một số hạn chế và cải thiện chất lượng giảng dạy nhạc Chèo. Ngoài ra việc phân bổ giờ học môn hòa tấu một cách hợp lý hơn, chú trọng tăng thời lượng học hát Chèo cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Chèo tại  trường ĐHVHNTQĐ.

            Nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng dạy và học, trong quá trình giảng dạy, ngoài việc truyền dạy kiến thức chung về phong cách âm nhạc Chèo cũng như phương pháp diễn tấu phong cách âm nhạc Chèo trên đàn Bầu, thì giảng viên còn phải dạy cho sinh viên tự tư duy trong học tập, phát huy khả năng sáng tạo của mình, hướng sinh viên đến với các hoạt động cụ thể như: nghe các tài liệu âm nhạc, xem các vở Chèo, tiếp cận với các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhạc công lão thành...Việc đưa HSSV tiếp cận trực tiếp với sân khấu Chèo một cách sống động sẽ giúp người học hiểu hơn, thêm yêu nghệ thuật, góp phần gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc.

KẾT LUẬN

            Chèo từ lâu đã được đưa vào giảng dạy tại các cơ sở đào tạo âm nhạc và sân khấu chuyên nghiệp trong nước. Để gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống nói chung và Chèo nói riêng, thế hệ học sinh sinh viên cần được học sâu hơn nữa về nhạc Chèo, lịch sử, nội dung, các yếu tố làm nên sân khấu Chèo để hiểu được cái hay cái đẹp của Chèo.

            Trong chương 1, chúng tôi đã nêu một số đặc điểm của Chèo cổ, tầm quan trọng của âm nhạc Chèo trong sân khấu Chèo truyền thống, đặc biệt đi sâu vào vai trò không thể thiếu của đàn Bầu trong nghệ thuật Chèo, những kỹ thuật diễn tấu của đàn Bầu để thể hiện tốt các làn điệu Chèo...tất cả hiện nay đã được đưa vào giảng dạy tại hầu hết các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp, trong đó có trường ĐHVHNTQĐ. Đi sâu vào thực trạng giảng dạy của trường ĐHVHNTQĐ gồm: chương trình giảng dạy còn sơ sài, các bộ môn chưa có sự thống nhất về nội dung giảng dạy, thiếu sự đa dạng, giáo trình – nội dung giảng dạy phần lớn sử dụng giáo trình giảng dạy của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và một số làn điệu Chèo từ các tài liệu ghi chép tay cá nhân của riêng giảng viên, phương pháp giảng dạy mới chỉ dừng lại ở bài bản, giao bài – trả bài...là những bất cập đang tồn tại vẫn chưa được khắc phục. Thực trạng trên vô hình chung gây khó dễ cho HSSV, chưa đem lại cho người học hứng thú, sự say mê với Chèo giống như các nghệ nhân, nghệ sĩ thế hệ trước. Sinh viên hầu như chỉ học để trả bài, để thi HK chứ hầu như không sử dụng Chèo ngoài trường học và không tự mình tìm tòi, tiếp cận với sân khấu Chèo. Điều này cũng làm cho Chèo dần dần mai một và khó bảo tồn, gìn giữ.

            Tại chương 2 chúng tôi đã đi sâu vào Để giải quyết thực trạng trên, về phương pháp giảng dạy, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy của các bậc tiền bối với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, chúng tôi tổng kết lại và mạnh dạn đưa ra đề xuất về đổi mới phương pháp giảng dạy với cách truyền đạt kiến thức cụ thể, cách giúp giờ lên lớp giữa thầy – trò có hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng giảng dạy phong cách Chèo bằng phương pháp dạy nhạc Chèo qua hát Chèo, đa dạng hóa nội dung giảng dạy, đưa HSSV tiếp cận gần và nhiều hơn nữa với sân khấu Chèo thực sự. Thay vì học một cách thụ động, học để đối phó, để thi cho qua thì việc chú trọng đến hứng thú học hỏi của lớp trẻ sẽ giúp sinh viên thêm yêu đàn Bầu, yêu Chèo, yêu nghề và đam mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, tập luyện.

KHUYẾN NGHỊ

            Để tạo điều kiện cho việc giảng dạy đàn Bầu tại trường ĐHHVHNTQĐ, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học một cách chuyên sâu hơn, đào tạo ra các thế hệ học sinh sinh viên có trình độ chuyên môn tốt hơn, chúng tôi xin đề xuất một số khuyến nghị như sau:

            - Cần sưu tầm, biên soạn, bổ sung thêm các làn điệu Chèo đầy đủ cả phần Ngâm, Vỉa.. vào chương trình giảng dạy cho đàn Bầu tại khoa Âm nhạc dân tộc và Miền núi tại trường ĐHVHNTQĐ. Khuyến khích giảng viên dạy đàn đóng góp các bản tư liệu giảng dạy ghi chép tay để đưa vào giáo trình. Nghiên cứu và tổng hợp lại để đưa ra một giáo trình chính thức, đa dạng, hợp lý dành riêng cho chuyên ngành đàn Bầu tại trường.

            - Cần đưa hát Chèo vào một trong những bộ môn chính song song với chương trình học của bộ môn chuyên ngành và hòa tấu, giảng dạy thêm và tạo điều kiện cho HSSV có thể đệm hát cho nhau mỗi tiết học và thi HK hát Chèo

            - Cần điều chỉnh thời gian và thời lượng học hòa tấu 3 phong cách nhạc cổ chính (Chèo, Huế, Tài tử Cải lương) cho phù hợp, bám sát chương trình học chuyên ngành để hỗ trợ tối đa cho nhau.

            - Thu thập nhiều tư liệu băng đĩa hay và chất lượng để HSSV có thêm nguồn tư liệu tham khảo.

            - Tổ chức thêm các buổi biểu diễn theo chuyên đề Chèo cho sinh viên có cơ hội trình diễn những gì đã được học, giao lưu, học hỏi thêm từ bạn bè, thêm kinh nghiệm đứng trên sân khấu.

            - Thường xuyên mời các nghệ nhân, nghệ sĩ lão thành đến giao lưu, cộng tác giảng dạy cho HSSV trong các giờ dạy hòa tấu, hát Chèo tại ĐHVHNTQĐ, góp mặt khách mời trong các buổi biểu diễn chuyên đề Chèo.

            - Tạo điều kiện cho HSSV được tiếp xúc trực tiếp với Chèo bằng những buổi đi thực tế sân khấu Chèo qua những vở Chèo cổ, kết hợp với các buổi nói chuyện, giao lưu về âm nhạc Chèo.

Chúng tôi mong muốn và hi vọng đề tài sẽ đóng góp một phần nhỏ bé để nâng cao chất lượng dạy và học nhạc Chèo của đàn Bầu, khắc phục và đáp ứng được phần nào những đòi hỏi về giảng dạy hiện nay tại trường ĐHVHNTQĐ.

 

 

Đầu trang
  
English


Các khoa, bộ môn
Khoa Piano
Khoa Dây
Khoa Kèn - Gõ
Khoa Accordion - Guitar- Organ
Khoa nhạc Jazz
Khoa Thanh nhạc
Khoa Âm nhạc Truyền thống
Khoa Sáng tác - Chỉ huy - Âm nhạc học
Khoa Kiến thức Âm nhạc
Khoa Văn hoá và Kiến thức cơ bản

Quảng cáo
Liên hệ quảng cáo
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
77 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội
ĐT: +844 3851 4969 / 3856 1842 - Fax: +844 3851 3545
Website: www.vnam.edu.vn - Email: hvan@vnam.edu.vn